Bàn về chỉ số “sống sót” cho doanh nghiệp trong khủng hoảng
Đối với một doanh nghiệp, để có thể tồn tại được, doanh nghiệp đó phải có khả năng dùng tiền của mình để chi trả cho mọi hoạt động của mình. Chỉ số Day cash on hand (DCOH), hay còn gọi là “số ngày sống sót” lượng hóa thời gian nắm giữ lượng tiền mặt của các doanh nghiệp, tức số ngày doanh nghiệp có thể sống với số tiền hiện có. Khái quát về DCOH, bài viết phân tích chỉ tiêu DCOH tại một số doanh nghiệp cụ thể để thấy rõ được ý nghĩa, vai trò của chỉ số sống sót cho doanh nghiệp trong khủng hoảng.
Chỉ tiêu DCOH – Số ngày có khả năng chi trả bằng tiền
Tiền mặt trong doanh nghiệp (DN), bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng; tương đương tiền bao gồm tất cả các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng. Đối với một DN, để có thể tồn tại được thì DN đó phải có khả năng dùng tiền của mình để chi trả cho mọi hoạt động của mình. Chỉ số Day cash on hand (DCOH), hay còn gọi là “số ngày sống sót” lượng hóa thời gian nắm giữ lượng tiền mặt của các DN, tức số ngày DN có thể sống với số tiền hiện có.
Chỉ số này được tính toán bằng cách chia số dư tiền, tương đương tiền, các loại giấy tờ có giá có thể chuyển đổi nhanh thành tiền khác cho chi phí hoạt động (bao gồm: chi phí bán hàng, chi phí quản lý, một phần ứng trước để chi trả cho chi phí giá vốn).
Chỉ số DCOH không phải là số tiền nằm trong quỹ, mà được hiểu là lượng tiền mặt trong két, tiền gửi ngân hàng, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các tài sản dễ dàng chuyển đổi thành tiền (tiền và các khoản tương được tiền). Cho nên, chỉ số DCOH còn gọi là chỉ số “sống sót”, tức là DN nào nắm càng nhiều tiền, thì có khả năng “sống sót” cao. Nghĩa là có khả năng phục hồi sau khủng khoảng kinh tế, nhất là thời điểm bùng phát dịch COVID 19.
Chỉ số DCOH ước tính khả năng chịu đựng của DN trong cuộc khủng hoảng, có khả năng đáp ứng được tất cả các yêu cầu thanh toán, các khoản chi phí của DN trong vòng bao nhiêu ngày. Số ngày DCOH càng cao, khả năng DN sẽ "sống sót" càng lâu trong điều kiện doanh thu sụt giảm, hoặc không có doanh thu, thu nhập hoạt động bị âm. Tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch Ratings xếp hạng A cho các DN có số ngày DCOH bình quân khoảng 366 ngày.
Phân tích chỉ tiêu DCOH tại một số doanh nghiệp
Bài viết phân tích DCOH cho các DN nằm trong bộ chỉ số VN30 (ngoại trừ khối ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, chứng khoán vì khối này có đặc tính rất khác – bản chất là các định chế tài chính có cấu trúc tiền rất khác) để thấy được khả năng “sống sót” của DN với số tiền hiện có. Theo đó, có khoảng gần 20 DN được tính với dữ liệu tại ngày 31/12/2019.
Theo Bảng 1, ta có chỉ tiêu số ngày có khả năng chi trả bằng tiền được tính dựa trên:
Trong đó, chi phí bán hàng phi tiền tệ và chi phí quản lý phi tiền tệ là những khoản chi phí khấu hao tài sản cố định, các khoản phân bổ chi phí dự phòng, vì các khoản chi phí này không chi ra bằng tiền. Giá vốn giả định rằng DN phải ứng trước 10% bằng tiền để chi cho giá vốn trước khi tạo ra doanh thu trong tương lai.
Kết quả của DCOH được tính như Bảng 1. Một số DN có DCOH hơn 1.000 ngày, nghĩa là DN đủ tiền chi cho hơn 1.000 ngày. Ví dụ, DN GAS – dầu khí, tiền kinh doanh thuần tạo ra năm 2019 là 12.680 tỷ đồng. Tuy nhiên, có DN rất nổi tiếng trên thị trường, nhưng có số ngày chi trả không cao, như MWG, năm 2019 âm 1.286 tỷ đồng; PNJ âm 661 tỷ đồng.
Phần lớn DN trong top VN30 đều có khả năng thanh toán tốt. Tuy nhiên DN ROS (Công ty Cổ phần Xây dựng FLC - ngành Xây dựng) có số ngày có khả năng chi trả bằng tiền chỉ có 24 ngày, vì lượng tiền và tương đương tiền của ROS tại ngày 31/12/2019 chỉ có 38 tỷ đồng trong một DN có lượng tài sản trên một ngàn tỷ đồng.
Bảng 1 cho thấy, 3 DN có DCOH dưới 6 tháng, nghĩa là khá thấp, như MWG, PNJ, ROS. Trường hợp của MWG, mặc dù đã tích cực cắt giảm chi phí vận hành, Công ty sở hữu hơn 3.000 cửa hàng trên cả nước, mong muốn giảm 50% giá thuê trong 12 tháng và miễn chi phí thuê mặt bằng của các cửa hàng trong thời gian phải đóng cửa tạm ngưng kinh doanh theo yêu cầu Nhà nước. Những DN có DCOH khoảng tầm 365 ngày (1 năm) là HPG, MSN, PLX, VIC, VJC, VNM. Tuy nhiên, số dư tiền này đa phần có được từ các hoạt động tài chính, tức là đi vay, bao gồm vay ngắn hạn ngân hàng và vay dài hạn…
Theo Bảng 1, 3 DN có chỉ số DCOH trên 1.000 ngày là NVL (Công ty cổ phần Đầu tư địa ốc No Va), REE (Công ty cổ phần Cơ điện lạnh), GAS (Tổng công ty khí Việt Nam). GAS có lượng tiền mặt với 29.390 tỷ đồng, chiếm hơn 47% tổng tài sản. Trước cú sốc giá dầu giảm do Covid-19, mỗi năm GAS thu về từ 10.000 - 12.000 tỷ đồng lợi nhuận, đó là lý do Công ty có nguồn tiền mặt dồi dào và lợi nhuận chưa phân phối rất lớn…
Đối với Vietnam Airlines (HVN), thời gian tối đa DN có thể "cầm cự" được với những khoản chi phí, trong bối cảnh nguồn thu gần như không còn. Tại thời điểm cuối năm 2019, lượng tiền và tương đương tiền của Vietnam Airlines là hơn 6.500 tỷ đồng. Tuy nhiên, dịch Covid-19 đã đánh bay mọi thành quả tích lũy của Vietnam Airlines trong 5 năm qua. Ðược biết, cuối năm 2019, HVN có hơn 6.500 tỷ đồng, nhưng số tiền này hiện đã cạn kiệt, DN này phải tăng vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Ngay từ tháng 3/2020, HVN phải chậm thanh toán một số khoản nợ đến hạn. Trong 3 tháng đầu năm 2020, doanh thu hợp nhất của HVN ước đạt 19.212 tỷ đồng, giảm 6.712 tỷ so với cùng kỳ và lỗ 2.383 tỷ đồng. Dự kiến, nếu dịch kéo dài và kết thúc trong quý IV/2020, tổng doanh thu của HVN ước đạt 38.140 tỷ đồng, giảm 72.411 tỷ đồng so với kế hoạch 2020 và ước lỗ 19.651 tỷ đồng.
Phân tích thêm trường hợp của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV), tại thời điểm 31/12/2019, ACV có hơn 31.272 tỷ đồng, trong đó đa phần là tiền gửi ngân hàng (30.920 tỷ). Lượng tiền của ACV chiếm 52,7% tổng tài sản của ACV. Mặc dù, nguồn tiền gửi dồi dào, nhưng hiện tại ACV cũng phải đi vay gần 15.000 tỷ đồng để đầu tư xây dựng Nhà ga hành khách quốc tế Sân bay Tân Sơn Nhất và nhà ga T2 Sân bay Nội Bài. Lượng tiền mặt lớn cũng là "của để dành" cho ACV làm đối ứng cho các khoản vay lớn để triển khai Dự án sân bay Long Thành.
Năm 2019, lợi nhuận của ACV tăng hơn 30%, tuy nhiên năm 2020, dự kiến tổng lượng hành khách thông qua các cảng hàng không của ACV (21 sân bay) sẽ giảm tới 40% so với năm 2019, trong đó, khách quốc tế giảm khoảng 70%. ACV mới đây đã công bố quyết định giảm giá các dịch vụ hàng không cho tất cả các hãng hàng không (bao gồm cả hãng hàng không quốc tế và hãng hàng không nội địa).
DN có lượng tiền mặt lớn thứ 2 là GAS với 29.390 tỷ đồng, chiếm hơn 47% tổng tài sản. Vingroup nắm giữ 19.368 tỷ đồng tiền và tiền gửi ngân hàng. Với tổng tài sản hơn 403.700 tỷ đồng, doanh thu mỗi năm hơn 130.000 tỷ đồng, lượng tiền mặt này giúp Vingroup vận hành các mảng kinh doanh của Tập đoàn.
Các DN nắm giữ tiền mặt lớn khác có thể kể đến như: VEAM, Petrolimex, Sabeco nắm giữ hơn 16.000 tỷ đồng tiền và tương đương tiền. Trong đó, lượng tiền VEAM (Tổng công ty Máy Động lực và Máy Nông nghiệp Việt Nam) nắm giữ chiếm 50,6% tổng tài sản, mỗi năm VEAM nhận cổ tức từ các công ty liên kết như Honda, Toyota, Ford hơn 7.100 tỷ đồng, cao gấp rưỡi doanh thu bán hàng của Tổng công ty. Tuy nhiên, với tình hình cách ly xã hội và nhiều nhà máy sản xuất ô tô tạm dừng sản xuất, chắc chắn nguồn thu của VEAM sẽ bị sụt giảm mạnh năm 2020.
Với Petrolimex (PLX), dự kiến doanh thu năm 2020 của PLX sẽ giảm 12.500 tỷ đồng và lợi nhuận giảm hơn 1.000 tỷ đồng so với kế hoạch đặt ra ban đầu do ảnh hưởng bởi Covid-19. Hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn bộ hệ thống PLX bị ảnh hưởng đáng kể bởi dịch Covid-19 trong tất cả các lĩnh vực: kinh doanh phân phối xăng dầu, nhiên liệu hàng không, vận tải, hóa dầu, gas, và các dịch vụ phụ trợ khác.
Với Sabeco, hiện chưa công bố kế hoạch kinh doanh năm 2020. Bị tác động kép từ Nghị định số 100/2020/ NĐ-CP và Covid-19, theo số liệu từ ThaiBev, sản lượng bia của Sabeco bán ra trong quý I/2020 ước giảm khoảng 6% so với cùng kỳ năm 2019. Theo các chuyên gia kinh tế, kênh phân phối bia thông qua các nhàhàng, quán nhậu hiện chiếm tỷtrọng lớn khoảng 70-80% doanh sốbán bia của Sabeco, vìthếsản lượng bia tiêu thụtrong năm 2020 của Sabeco được dự báo báo giảm 20% vàgiábán sẽđược điều tiết từ5 - 10% theo cung vàcầu thịtrường khi nhu cầu ngày càng giảm.
Kết luận
Mỗi loại hình kinh doanh có những cấu trúc chi phí khác nhau, nên DCOH chỉ là một chỉ số tham khảo, vì số ngày cầm cự thực tế trong khủng hoảng của các DN sẽ ít hơn hoặc nhiều hơn. Việc duy trì lượng tiền là bao nhiêu trên thực tế sẽ khác nhau ở nhiều đơn vị kinh doanh, tùy thuộc vào chiến lược tài chính, chiến lược tăng trưởng và đặc thù ngành nghề. Tuy nhiên, mọi thứ đều có tính hai mặt. Giữ lượng tiền mặt lớn đồng nghĩa với việc không thể chuyển hóa thành các tài sản có mức sinh lời cao hơn, nhưng trong bối cảnh khủng hoảng không có nguồn thu, tiền mặt nghiễm nhiên trở thành “vua”.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Văn Công (2017), Giáo trình Phân tích báo cáo tài chính, NXB Đại học Kinh tế quốc dân;
2. https://tinnhanhchungkhoan.vn/chung-khoan/tien-giup-doanh-nghiep-truvung-trong-bao-lau-322911.html;
3. https://cafef.vn/diem-mat-30-ong-lon-co-nhieu-tien-nhat-san-chungkhoan-nhung-thoi-covid-19-vai-nghin-ty-cung-chi-nhu-muoi-bobien-2020040918152588.chn.