Quản trị tài chính theo hiệu quả đầu tư, bước đột phá trong tư duy quản lý vốn nhà nước
Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 68/2025/QH15) đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi quan trọng trong tư duy quản lý vốn nhà nước; góp phần chuyển dịch căn bản từ mô hình “quản lý theo ngân sách” sang “quản trị theo hiệu quả đầu tư tài chính”.

Việc ban hành Luật số 68/2025/QH15 – Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp được đánh giá là bước ngoặt thể chế mang tính đột phá, mở ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vận hành theo cơ chế thị trường hiện đại, với quyền tự chủ tài chính thực chất, giám sát định lượng và trách nhiệm giải trình rõ ràng.
Luật số 68/2025/QH15: Đột phá thể chế theo hướng tài chính – đầu tư
Theo phân tích của PGS.,TS. Ngô Trí Long – Chuyên gia kinh tế, sự ra đời của Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp (Luật số 68/2025/QH15) đánh dấu bước ngoặt chuyển đổi quan trọng trong tư duy quản lý vốn nhà nước. Luật này chuyển dịch căn bản từ mô hình “quản lý theo ngân sách” sang “quản trị theo hiệu quả đầu tư tài chính”, với các nội dung cải cách sâu sắc.
Thứ nhất, Luật đã tách bạch vai trò chủ sở hữu vốn và cơ quan quản lý nhà nước. Vốn nhà nước được quản lý như một loại “tài sản tài chính công” theo nguyên tắc đầu tư, thay vì bị lẫn lộn với ngân sách chi tiêu hành chính.
Theo đó, góp phần chuẩn hóa mô hình quản trị tài chính DNNN, thiết lập các chỉ tiêu tài chính định lượng như lợi nhuận sau thuế, tỷ suất sinh lời trên vốn nhà nước (ROE), tỷ lệ chi trả cổ tức cho ngân sách..., làm cơ sở đánh giá hiệu quả đầu tư.
Thứ hai, thúc đẩy cơ chế tự chủ tài chính. DNNN được quyền quyết định phương án phân phối lợi nhuận, lựa chọn chiến lược M&A, chi trả thù lao ban điều hành gắn với kết quả kinh doanh tương tự như doanh nghiệp niêm yết.
Thứ ba, tăng cường giám sát đầu tư công qua chuẩn mực thị trường. DNNN bắt buộc phải công bố thông tin, báo cáo tài chính kiểm toán độc lập, đánh giá định kỳ hiệu quả sử dụng vốn như đối với quỹ đầu tư tài chính chuyên nghiệp.
Thứ tư, chuyển hóa vốn nhà nước thành tài sản tài chính sinh lời. Bản chất sâu xa của cải cách này là chuyển hóa vốn nhà nước từ vị thế “nguồn chi” sang vai trò “tài sản tạo thu”, từ đó góp phần tăng hiệu quả tài chính công; Giảm gánh nặng ngân sách thường xuyên, tạo nguồn thu từ cổ tức, lợi nhuận, bán vốn đầu tư lại cho các lĩnh vực ưu tiên; Hình thành thị trường vốn nhà nước vận hành theo chuẩn mực tài chính hiện đại.
Thứ năm, từng bước xây dựng danh mục đầu tư công hiệu quả, linh hoạt như danh mục đầu tư của các quỹ chủ quyền quốc gia (sovereign wealth funds). Việc tăng tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư tổ chức DNNN có mô hình tài chính minh bạch, hiệu quả và quản trị chuẩn hóa sẽ mở đường thu hút vốn từ các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư dài hạn trong và ngoài nước, giảm phụ thuộc vào nợ công.
Đề xuất chính sách tài chính triển khai hiệu quả Luật
Theo PGS., TS. Ngô Trí Long, việc ban hành Luật 68/2025/QH15 về Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp là một bước đột phá quan trọng, tạo nền tảng pháp lý để hiện thực hóa tư duy “vốn nhà nước là tài sản tài chính quốc gia”. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả, cần tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Một là, cần sớm ban hành nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật 68. Trọng tâm vào 2 nội dung cốt lõi: (i) Thiết lập cơ chế đầu tư, phân phối lợi nhuận và giám sát hiệu quả tài chính Luật 68 chuyển từ quản lý hành chính sang đầu tư sinh lời. Cần cụ thể hóa tiêu chí lựa chọn dự án, ngưỡng rủi ro, tỷ suất sinh lời, yêu cầu hoàn vốn. DNNN được tự chủ phân phối lợi nhuận sau thuế nhưng phải gắn với hiệu quả tài chính và chịu giám sát chặt chẽ. Đồng thời, ban hành bộ chỉ số giám sát tài chính thống nhất (ROE, ROA, nợ/vốn chủ sở hữu, hiệu suất tài sản…) cho các DNNN có tính thương mại.
(ii) Phân loại DNNN theo chức năng, áp dụng mô hình quản trị phù hợp Doanh nghiệp thương mại quản trị theo mô hình công ty hiện đại, lãnh đạo chịu trách nhiệm về hiệu quả và lợi nhuận, lương thưởng gắn với kết quả.
Doanh nghiệp công ích áp dụng cơ chế đặt hàng – giao nhiệm vụ – đánh giá kết quả; công khai định mức, kiểm toán độc lập, tách biệt công ích và thương mại. Doanh nghiệp quốc phòng – an ninh áp dụng cơ chế đặc thù nhưng phải đảm bảo công khai ngân sách, kiểm soát nội bộ và hiệu quả đầu tư; phân định rõ nhiệm vụ an ninh – quốc phòng và hoạt động kinh doanh để tránh bao cấp tràn lan.
Hai là, chuẩn hóa bộ chỉ tiêu giám sát tài chính DNNN. Để thiết lập hệ thống đánh giá hiệu quả đồng bộ, minh bạch, Bộ Tài chính nghiên cứu ban hành bộ chỉ tiêu giám sát tài chính công thống nhất cho toàn bộ doanh nghiệp có vốn nhà nước, bao gồm ba nhóm: (i) Nhóm chỉ tiêu tài chính: ROE (tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu); ROS (tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu); Tăng trưởng vốn hóa thị trường, lưu chuyển tiền tệ thuần từ hoạt động kinh doanh.
(ii) Nhóm chỉ tiêu kinh tế – xã hội: Số việc làm tạo mới; Mức nộp ngân sách nhà nước; Tỷ lệ thực hiện các nhiệm vụ công ích; (iii) Nhóm chỉ tiêu quản trị: Chỉ số minh bạch và trách nhiệm giải trình (theo chuẩn OECD); Tỷ lệ sai phạm về tài chính – pháp lý qua thanh tra, kiểm toán. Hệ thống các chỉ tiêu này sẽ tạo nền tảng cho xếp hạng tín nhiệm DNNN, tăng tính hấp dẫn với nhà đầu tư và nâng cao kỷ luật tài chính.
Ba là, đổi mới chính sách tài chính gắn với trách nhiệm cá nhân và kết quả đầu tư công. Việc chuyển từ mô hình “bao cấp vốn” sang “quản trị hiệu quả đầu tư” đòi hỏi thay đổi căn bản cơ chế tài chính tại DNNN, gắn quyền và trách nhiệm của người đứng đầu.
Nghiên cứu thí điểm áp dụng mô hình Hội đồng Tài chính DNNN độc lập tại các tập đoàn lớn – có chức năng phản biện đầu tư, thẩm định rủi ro và định kỳ đánh giá hiệu quả sử dụng vốn; Ký hợp đồng trách nhiệm tài chính giữa cơ quan chủ sở hữu và Tổng Giám đốc, trong đó, thu nhập, thưởng và nhiệm kỳ được gắn trực tiếp với tỷ suất sinh lời trên vốn nhà nước (ROIC); Công khai báo cáo tài chính định kỳ trên Cổng thông tin của Bộ Tài chính làm cơ sở đánh giá, xếp loại cán bộ quản lý hàng năm.
Bốn là, tăng cường vai trò điều phối chính sách tài chính liên ngành của Bộ Tài chính. Trong bối cảnh vốn nhà nước được xác lập là một phần trong danh mục tài sản tài chính quốc gia, Bộ Tài chính cần đóng vai trò "nhạc trưởng" trong điều phối các chính sách tài khóa, đầu tư và giám sát tài chính DNNN.
Ngoài ra, vị chuyên gia cũng đề xuất các nhiệm vụ tăng cường, theo đó ban hành hệ thống Chuẩn mực báo cáo tài chính dành riêng cho DNNN – hướng đến tiệm cận IFRS, phục vụ giám sát hiệu quả và thúc đẩy niêm yết minh bạch; Chủ trì phối hợp với Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ thiết lập cơ chế kiểm soát đồng bộ từ kế hoạch đầu tư đến giám sát thực thi, bảo đảm kỷ luật ngân sách; Định kỳ công bố Báo cáo tài sản tài chính quốc gia, trong đó vốn nhà nước tại doanh nghiệp được theo dõi, đánh giá như một cấu phần của danh mục đầu tư công.
Theo PGS., TS. Ngô Trí Long, việc triển khai hiệu quả Luật số 68/2025/QH15 không chỉ nằm ở nội dung pháp lý, mà phụ thuộc quyết định vào năng lực điều phối chính sách tài chính và sự đổi mới trong tư duy quản lý vốn công.
"Bộ Tài chính cần giữ vai trò trung tâm trong quá trình chuyển đổi này – từ xây dựng chuẩn mực, giám sát hiệu quả, đến tái định vị vốn nhà nước như một loại tài sản sinh lời chiến lược. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để thu hút đầu tư tổ chức, nâng tầm thị trường vốn Việt Nam và bảo toàn – phát triển tài sản quốc gia trong dài hạn", PGS., TS. Ngô Trí Long khuyến nghị.