Bộ Tài chính trả lời cử tri về tiến độ thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước


Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIV, cử tri TP. Đà Nẵng có kiến nghị về tiến độ thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn còn chậm; Việc đánh giá, định giá tài sản của DN cổ phần còn bất cập, giá trị định giá quá thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước.

Cử tri TP. Đà Nẵng đề nghị Chính phủ xem xét, có quy định cụ thể hơn và giải pháp khắc phục trong thời gian tới. Vấn đề này đã được Bộ Tài chính trả lời như sau:

Triển khai kế hoạch công tác cổ phần hóa DNNN còn chậm

Theo kế hoạch cổ phần hóa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Công văn số 991/TTg-ĐMDN ngày 10/7/2017 thì năm 2018 phải hoàn thành cổ phần hóa ít nhất 85 DN (bao gồm: 21 DN thuộc danh mục năm 2017 và 64 DN thuộc danh mục năm 2018).

Tuy nhiên, trong năm 2018 chỉ có 22 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cố phần hóa, trong đó, có 16 DNNN và 06 đơn vị sự nghiệp công lập. Vì vậy, việc cổ phần hóa còn chậm so với kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh nguyên nhân khách quan như diễn biến phức tạp về kinh tế, chính trị, thương mại của khu vực Đông Nam Á và trên Thế giới thì các nguyên nhân chủ quan vẫn là nguyên nhân chính như:

Hiện nay, còn một số bộ, ngành, địa phương, Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành chế độ báo cáo. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu DN, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của DN, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong cổ phần hóa DNNN.

Trên thực tế, quá trình cổ phần hóa DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước cổ phần hóa làm kéo dài thời gian thực hiện cổ phần hóa. Đặc biệt là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do Ủy ban nhân dân địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định dẫn đến các DN phải điều chỉnh tiến độ cổ phần hóa.

Về tỷ lệ vốn nhà nước trong Phương án cổ phần hóa DNNN còn cao dẫn đến giảm sức hút đối với các nhà đầu tư mua cổ phần, ảnh hưởng đến thành công của việc cổ phần hóa.

Bên cạnh đó, một số DN sau khi chuyển sang công ty cổ phần, do tỷ lệ Nhà nước nắm giữ vốn còn cao nên việc thay đổi quản trị DN gặp khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN.

Giá trị định giá quá thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước như cử tri đã nêu là chưa có cơ sở

Trong thời gian qua, triển khai Hiến pháp năm 2013, phù hợp các yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về DN nói chung và DNNN nói riêng (đáp ứng yêu cầu vai trò chủ đạo trong kinh tế nhà nước), Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua các Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Quản lý, sử dụng sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào hoạt động sản xuất, kinh doanh tại DN (Luật số 69/2014/QH13 thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015).

Trên cơ sở các Luật nêu trên thì Chính phủ đã ban hành các Nghị định liên quan như: Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015; Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 08/03/2018; Nghị định số 126/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017.

Đồng thời, Bộ Tài chính cũng ban hành các Thông tư hướng dẫn như: Thông tư số 219/TT-BTC ngày 31/12/2015; Thông tư số 40/2018/TT-BTC ngày 04/05/2018; Thông tư số 41/2018/TT-BTC ngày 04/05/2018.

Đối với công tác thẩm định giá, tài sản do các tổ chức, DN thực hiện theo quy định của Luật giá số 11/2012/QH13 ngày 20/06/2012; Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/08/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá; Thông tư số 122/2017/TT-BTC ngày 15/11/2017 của Bộ Tài chính ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam số 12. Đồng thời các Công ty phải chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định giá của mình.

Trên cơ sở giá khởi điểm được cấp có thẩm quyền xác định tại phương án cổ phần hóa được phê duyệt, DN sẽ tổ chức bán cổ phần. Việc bán cổ phần được tổ chức đấu giá công khai thực hiện tại các Sở Giao dịch chứng khoán. Trường hợp DN cổ phần hóa có khối lượng cổ phần bán ra có mệnh giá dưới 10 tỷ đồng thì cơ quan đại diện chủ sở hữu có thể xem xét, quyết định tổ chức đấu giá tại các công ty chứng khoán hoặc trung tâm dịch vụ, doanh nghiệp đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản.

Với các quy định nêu trên, đã giúp khắc phục các bất cập trong công tác định giá tài sản của DN cổ phần hóa, DN cổ phần hóa tổ chức bán đấu giá cổ phần công khai, minh bạch theo đúng nguyên tắc thị trường.       

Bên cạnh đó, Kiểm toán Nhà nước định kỳ tiến hành kiểm toán việc cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các DNNN và Dn có vốn nhà nước, cũng như triển khai các cuộc kiểm toán chuyên đề liên quan đến cổ phần hóa. DN cổ phần hóa và tổ chức tư vấn định giá có trách nhiệm giải trình, cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu có liên quan đến công tác xác định giá trị DN và xử lý các vấn đề tài chính trước khi định giá theo yêu cầu của Kiểm toán Nhà nước.

Như vậy, có thể nói việc đánh giá, định giá tài sản của DN cổ phần còn bất cập, giá trị định giá quá thấp, gây thất thoát tài sản nhà nước như cử tri đã nêu là chưa có cơ sở.

Thêm vào đó, ngày 21/11/2018, Thủ tướng Chính phủ đã tổ chức Hội nghị Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở ý kiến của các đơn vị tại Hội nghị và tình hình triển khai thực tiễn. Thủ tướng Chính phủ đã kết luận nhiều nội dung quan trọng liên quan đến tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn tại doanh nghiệp có vốn nhà nước nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, thoái vốn trong thời gian tới một cách hiệu quả và minh bạch.

Trên cơ sở kết luận, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 05/01/2019 về việc tăng cường công tác chỉ đạo, đẩy mạnh công tác cơ cấu lại, sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DNNN và DN có vốn nhà nước.

Hoàn thiện thể chế đối với công tác cổ phần hóa

Hiện nay, Bộ Tài chính đang khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ quá trình sắp xếp, cổ phần hóa, cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN và DN có vốn nhà nước như: Trong năm 2019 và 2020, hoàn thành việc rà soát, báo cáo Chính phủ trình Quốc hội ban hành luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN; Chủ trì rà soát, trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 của Chính phủ về việc sắp xếp, xử lý tài sản công và Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về tiền sử dụng đất, Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước gắn với cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN có vốn nhà nước (trước Quý I/2019).

Có thể thấy, các cơ chế, chính sách quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các DNNN cũng như cổ phần hóa, thoái vốn liên tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới, hội nhập; các cơ chế, chính sách tạo môi trường pháp lý đầy đủ, đồng bộ, ổn định cho hoạt động quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại cơ quan nhà nước và DN; cơ chế, chính sách đã đảm bảo tôn trọng và nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của DN cùng việc tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản, việc ban hành, hoàn thiện Luật quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN là bước hoàn thiện có tính pháp luật cao nhất trong quá trình thực hiện cơ chế đổi mới quản lý DNNN.

Như vậy, công tác xây dựng thể chế về tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn cũng như quá trình triển khai, giám sát... trong thời gian vừa qua là đồng bộ, vừa đảm bảo thúc đẩy quá trình cổ phần hóa DNNN nhưng cũng hạn chế được những bất cập, hạn chế về công tác định giá giá trị tài sản như ý kiến kiến nghị của cử tri nêu.