Bộ Tài chính trả lời kiến nghị của cử tri về chính sách hỗ trợ, ưu đãi thuế
Bộ Tài chính đã trả lời các kiến nghị của cử tri tỉnh Bắc Giang và cử tri tỉnh Gia Lai liên quan đến những ưu đãi thuế đối với hoạt động kinh doanh bất động sản và Quỹ tín dụng nhân dân.
Gửi kiến nghị tới Bộ Tài chính, cử tri tỉnh Bắc Giang đã đề nghị bổ sung danh mục kinh doanh bất động sản vào danh mục, sản phẩm hàng hóa được giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% theo quy định tại Nghị định số 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ.
Trả lời cử tri, Bộ Tài chính cho biết, Tiết a điểm 1.1 khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 của Quốc hội quy định: Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng trong năm 2022, áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cùng với đó, Điểm 4 Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội về Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV quy định: Thực hiện giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng quy định tại điểm a, khoản 1.1 Điều 3 của Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023.
Ngày 30/6/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/2023/NĐ-CP quy định chính sách giảm thuế giá trị gia tăng theo Nghị quyết số 101/2023/QH15.
Như vậy, hoạt động kinh doanh bất động sản không thuộc đối tượng được giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023 theo quyết nghị tại điểm 4 Nghị quyết số 101/2023/QH15 ngày 24/6/2023 của Quốc hội và quy định tại Nghị định số 44/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ.
Cử tri tỉnh Gia Lai cho biết, tại điểm c khoản 6 Điều 11 Thông tư số 92/2015/TT-BTC ngày 15/6/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn tính thuế thu nhập từ đầu tư vốn như sau: “Lợi tức nhận được do tham gia góp vốn vào công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, hợp tác xã, liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh và các hình thức kinh doanh khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp và Luật Hợp tác xã; lợi tức nhận được do tham gia góp vốn thành lập tổ chức tín dụng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; góp vốn vào Quỹ đầu tư chứng khoán và quỹ đầu tư khác được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Không tính vào thu nhập chịu thuế từ đầu tư vốn đối với lợi tức của doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá nhân làm chủ”.
Bên cạnh đó, cũng theo cử tri tỉnh Gia Lai, căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ đầu tư vốn được quy định tại khoản 2 Điều 10 Thông tư số 111/2013/TT- BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài chính như sau: “Thuế suất đối với thu nhập từ đầu tư vốn áp dụng theo Biểu thuế toàn phần với thuế suất là 5%”. Tuy nhiên, hiện nay nhiều thành viên của các Quỹ tín dụng nhân dân có mức vốn góp rất thấp (có thành viên chỉ góp vài trăm ngàn đồng), gây khó khăn trong việc thực hiện của các Quỹ tín dụng nhân dân. Cử tri đề nghị Bộ Tài chính cùng các bộ, ngành liên quan nghiên cứu xác định mức vốn góp tối thiểu và có quy định cụ thể về việc nộp thuế lợi tức cổ phần đối với thành viên Quỹ tín dụng nhân dân để các quỹ tín dụng nhân dân có cơ sở thực hiện.
Phản hồi cử tri, Bộ Tài chính cho biết, căn cứ theo Luật các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12; Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) số 04/2007/QH12; Thông tư số 92/2015/TT-BTC; Thông tư số 111/2013/TT- BTC của Bộ Tài chính thì trường hợp cá nhân góp vốn vào Quỹ tín dụng nhân dân khi nhận được lợi tức từ việc tham gia góp vốn vào Quỹ này thì đây là thu nhập từ đầu tư vốn phải chịu thuế TNCN theo quy định của Luật Thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn thi hành. Quy định thu thuế TNCN đối với thu nhập từ đầu tư vốn trong trường hợp này cũng thống nhất với các loại hình đầu tư vốn khác đã được quy định cụ thể tại Luật Thuế TNCN.