Cân nhắc kỹ về nâng trần nợ công để đảm bảo giữ vững an ninh tài chính quốc gia

PV.

Việc tính toán, đề xuất trần nợ công trình Quốc hội xem xét, phê duyệt sẽ được cân nhắc kỹ để đảm bảo mục tiêu giữ vững an ninh tài chính quốc gia, bền vững nợ.

Việc tính toán, đề xuất trần nợ công để trình Quốc hội xem xét, phê duyệt sẽ được cân nhắc kỹ để đảm bảo mục tiêu giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Nguồn: internet
Việc tính toán, đề xuất trần nợ công để trình Quốc hội xem xét, phê duyệt sẽ được cân nhắc kỹ để đảm bảo mục tiêu giữ vững an ninh tài chính quốc gia. Nguồn: internet

Theo ông Võ Hữu Hiển, Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính việc nâng trần nợ công một mặt phù hợp với khả năng vay vốn trên thị trường để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, mặt khác phù hợp với khả năng trả nợ của ngân sách, không làm ảnh hưởng đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia cũng như hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Nâng trần nợ công là thách thức không nhỏ

Trước tác động của dịch Covid-19, Thủ tướng Chính phủ có chủ trương có thể xem xét tăng tỷ lệ nợ công thêm từ 2-3% GDP để có thêm nguồn lực hỗ trợ nền kinh tế. Ông Võ Hữu Hiển cho rằng, quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017 cho phép Chính phủ được vay để bù đắp bội chi ngân sách trung ương cho đầu tư phát triển, không sử dụng vốn vay cho chi thường xuyên; vay để chi trả nợ gốc đến hạn và vay nước ngoài về cho vay lại đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp. Việc điều chỉnh chỉ tiêu kinh tế - xã hội và bội chi ngân sách nhà nước năm 2020 thuộc về thẩm quyền của Quốc hội. Trường hợp Quốc hội phê duyệt phương án tăng tỷ lệ bội chi, Chính phủ sẽ có nhiệm vụ huy động vốn vay bổ sung để đảm bảo cân đối ngân sách.

Theo kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt, kế hoạch vay của Chính phủ năm 2020 là 501 nghìn tỷ đồng, gồm: vay trong nước 394 nghìn tỷ đồng và vay nước ngoài 107 tỷ đồng. Trường hợp tăng vay vốn thêm 2-3% GDP để bổ sung nguồn lực cho đầu tư phát triển, hỗ trợ nền kinh tế ứng phó trước tác động của đại dịch Covid-19, khả năng các chỉ tiêu nợ công, nợ Chính phủ so với GDP vẫn nằm trong giới hạn được Quốc hội cho phép.

Từ đầu năm đến nay, hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam được cả 3 tổ chức xếp hạng tiếp tục giữ nguyên. Trong khi đó, có đến 40 quốc gia trên thế giới và trong khu vực bị hạ bậc tín nhiệm, 104 đợt hạ triển vọng tín nhiệm quốc gia bởi 3 tổ chức đánh giá S&P, Moody’s và Fitch, chủ yếu do các gói hỗ trợ tài khóa phòng chống đại địch dẫn đến gánh nặng nợ công gia tăng mạnh tại các nước này.

Tuy vậy, phương án vay bổ sung 2-3% GDP trong năm 2020, tương ứng với 180-240 nghìn tỷ đồng (trên cơ sở GDP đánh giá lại), so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt cũng sẽ là thách thức không nhỏ.

Ông Võ Hữu Hiển cho biết, hiện nay, tình hình giải ngân nguồn vốn đầu tư công, trong đó có các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài từ đầu năm đến nay còn rất chậm, việc thực hiện 100% kế hoạch vốn trong năm đã được Quốc hội, Chính phủ giao đòi hỏi nỗ lực rất lớn. Hiện còn trên 10 tỷ USD các khoản vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài đã ký kết, cần ưu tiên giải ngân ngay trong năm này cũng như giai đoạn tới theo đúng cam kết với các nhà tài trợ.

Thêm vào đó, việc huy động vốn vay nước ngoài cho chương trình dự án mới đòi hỏi thời gian chuẩn bị dài, có thể lên tới 2-3 năm do đòi hỏi nhiều thủ tục, trình tự phải triển khai trước khi có thể hoàn thành đàm phán, ký kết và giải ngân. Nếu huy động vốn vay nước ngoài để hỗ trợ trực tiếp cho ngân sách có thể triển khai nhanh hơn, nhưng thông thường các khoản vay này có quy mô nhỏ và kèm theo ràng buộc chính sách.

Mặt khác, khả năng hấp thụ vốn của thị trường trái phiếu chính phủ trong nước còn hạn chế. Việc thực hiện phát hành thêm khối lượng vốn lớn sẽ dẫn đến nguy cơ gây áp lực gia tăng chi phí vay vốn của Chính phủ, hoặc dẫn đến rủi ro tái cấp vốn trong những năm sau trong trường hợp Chính phủ phải phát hành trái phiếu kỳ hạn ngắn để đáp ứng nhu cầu vay tăng cao.

Ngoài ra, việc bội chi, nợ công gia tăng mạnh trở lại đã ảnh hưởng trực tiếp và tiêu cực lên hệ số tín nhiệm của một số nước. Ông Hiển dẫn chứng, E-ti-ô-pia, Pakistan, Ca-mơ-run, Sê-nê-gan, Bờ biển Ngà gần đây đều bị các tổ chức xếp hạng tín nhiệm hạ bậc/đưa vào diện xem xét hạ bậc khi bày tỏ nguyện vọng tham gia vào Sáng kiến Giảm nợ của G20. Việc tăng nợ công gắn với hệ lụy một mặt làm ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, mặt khác còn làm tăng chi phí vay vốn của toàn bộ nền kinh tế.

Cân nhắc kỹ để đảm bảo giữ vững an ninh tài chính quốc gia

Chia sẻ thêm về nỗ lực giữ vững xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, ông Võ Hữu Hiển cho biết, trong bối cảnh quốc tế cũng như trong nước còn nhiều thách thức, một điểm sáng từ đầu năm đến nay có thể kể đến việc hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam được cả 3 tổ chức xếp hạng tiếp tục giữ nguyên. Trong khi đó, trong 7 tháng đầu năm 2020, có đến 40 quốc gia trên thế giới và trong khu vực đã bị hạ bậc tín nhiệm, 104 đợt hạ triển vọng tín nhiệm quốc gia bởi 3 tổ chức đánh giá S&P, Moody’s và Fitch, chủ yếu do các gói hỗ trợ tài khóa phòng chống đại địch dẫn đến gánh nặng nợ công gia tăng mạnh tại các nước này.

Để đạt được kết quả trên, trước hết phải kể đến thành công của Chính phủ trong việc kiềm chế hiệu quả đại dịch Covid-19 trong nước, qua đó khẳng định tiềm năng phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế hậu đại dịch. Bên cạnh đó, phải kể đến đóng góp hết sức quan trọng của thành quả củng cố tình hình tài chính – ngân sách kể từ đầu nhiệm kỳ đến nay, cắt giảm mạnh bội chi và tỷ lệ nợ công, tạo dư địa dự phòng chính sách để ứng phó với rủi ro vĩ mô trong năm 2020.

Do đó, theo ông Hiển, việc huy động các nguồn vay mới trong năm 2020, bao gồm cả các khoản hỗ trợ Covid-19, cần được thẩm định, lựa chọn kỹ về tính hiệu quả, so sánh chi phí và lợi ích để đảm bảo khả năng trả nợ trong trung, dài hạn trước khi quyết định vay. Trường hợp Quốc hội phê duyệt điều chỉnh tăng tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước năm 2020, cần tính đến việc huy động từ các quỹ dự trữ tài chính trong nước, từ ngân quỹ nhà nước, cũng có thể phải tính đến phương án phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường vốn quốc tế. Đồng thời, cũng cần đa dạng hóa các nguồn lực khác như tranh thủ nguồn viện trợ, đầu tư trực tiếp nước ngoài để giảm áp lực lên nợ công.

Đối với các chỉ tiêu an toàn nợ công trong giai đoạn 2021-2025, Quốc hội sẽ xem xét, phê duyệt vào năm 2021. Quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 07-NQ/TW là cần cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công phải đảm bảo hiệu quả, bền vững, “chỉ chi trong khả năng của nền kinh tế và chỉ vay trong khả năng trả nợ”; giảm dần tỷ lệ nợ công đến năm 2030 không quá 60% GDP (trên cơ sở chưa điều chỉnh), tiến tới giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và tỷ lệ nợ công so với GDP, hướng tới cân bằng thu - chi ngân sách nhà nước.

"Việc tính toán, đề xuất trần nợ công để trình Quốc hội xem xét, phê duyệt trong giai đoạn sẽ được cân nhắc kỹ để đảm bảo mục tiêu giữ vững an ninh tài chính quốc gia, bền vững nợ. Một mặt phù hợp với khả năng vay vốn trên thị trường để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, mặt khác phù hợp với khả năng trả nợ của ngân sách, không làm ảnh hưởng đến xếp hạng tín nhiệm quốc gia cũng như hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế." - ông Võ Hữu Hiển nhấn mạnh.