Quản lý nợ công giai đoạn 2020-2022 và kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1130/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình quản lý nợ công 3 năm giai đoạn 2020-2022 và kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020.
Giai đoạn 2020-2022, tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1.546,3 nghìn tỷ đồng
Theo Chương trình, trong giai đoạn 2020-2022 tổng mức vay của Chính phủ khoảng 1.546,3 nghìn tỷ đồng, trong đó vay cho ngân sách trung ương khoảng 1.420,4 nghìn tỷ đồng, vay về cho vay lại khoảng 125,9 nghìn tỷ đồng. Cơ cấu huy động vốn của Chính phủ từ các nguồn trong nước khoảng 75-80% nhiệm vụ vay hàng năm, từ các nguồn nước ngoài khoảng 20-25%.
Bên cạnh đó, sẽ duy trì kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) bình quân hàng năm khoảng từ 6-8 năm. Chủ động bố trí nguồn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ, không để xảy ra tình trạng nợ quá hạn, làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc tế của Chính phủ; đảm bảo chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm không quá 25%...
Chương trình quản lý nợ công 3 năm giai đoạn 2020-2022 và kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020 đề ra mục tiêu kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong từng thời kỳ; phấn đấu đến cuối năm 2022, dư nợ công khoảng 51,4% GDP, nợ Chính phủ khoảng 46,2% GDP, cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công ở mức 40-45%; Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước...
Về bảo lãnh Chính phủ, đối với 2 ngân hàng chính sách, sẽ khống chế mức phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc hàng năm. Hạn chế cấp bảo lãnh mới cho doanh nghiệp (DN) vay trong nước cũng như vay nước ngoài; hạn mức bảo lãnh vay trong nước, nước ngoài hàng năm đảm bảo tốc độ tăng dư nợ bảo lãnh Chính phủ không vượt quá tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội của năm trước.
Về vay, trả nợ của chính quyền địa phương, khống chế hạn mức bội chi và nợ của chính quyền địa phương theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015, theo đó bội chi ngân sách địa phương năm 2020 khoảng 17 nghìn tỷ đồng, năm 2021 khoảng 15 nghìn tỷ đồng, năm 2022 khoảng 16,5 nghìn tỷ đồng (khoảng 0,2% GDP hàng năm). Nghĩa vụ trả nợ của chính quyền địa phương khoảng 42,8 nghìn tỷ đồng.
Về hạn mức vay thương mại nước ngoài của DN, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay, tự trả: kiểm soát tốc tăng dư nợ ngắn hạn tối đa 18-20%/năm; hạn mức vay ròng trung, dài hạn hàng năm tối đa khoảng 5.500-6.090 triệu USD, bảo đảm chỉ tiêu nợ nước ngoài của quốc gia trong giới hạn cho phép.
Năm 2020, trả nợ của Chính phủ 366.689 tỷ đồng
Theo Kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020, vay của Chính phủ 501.461 tỷ đồng, gồm: vay trong nước 394.040 tỷ đồng và vay nước ngoài 107.421 tỷ đồng.
Trong đó, vay cho cân đối ngân sách trung ương là 458.046 tỷ đồng, gồm: vay để bù đắp bội chi 217.800 tỷ đồng, vay để trả nợ gốc 231.156 tỷ đồng và phát hành TPCP để nhận nợ với Bảo hiểm Xã hội 9.090 tỷ đồng.
Về vay về để cho vay lại, sẽ đạt khoảng 43.415 tỷ đồng. Trả nợ của Chính phủ là 366.689 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp của Chính phủ 337.122 tỷ đồng, trả nợ của các dự án cho vay lại 29.567 tỷ đồng.
Về thực hiện tái cơ cấu nợ TPCP đáo hạn trong năm 2020, năm 2021, theo kế hoạch, sẽ thực hiện hoán đổi TPCP đáo hạn trong hai năm này để hài hòa nghĩa vụ trả nợ, hạn chế rủi ro thanh khoản cho ngân sách nhà nước, góp phần kéo dài kỳ hạn danh mục nợ TPCP căn cứ vào danh mục nợ TPCP trong nước, tình hình thị trường vốn và nhu cầu của nhà đầu tư. Khối lượng hoán đổi, mua lại, lãi suất chiết khấu, phương thức hoán đổi, thời điểm tổ chức hoán đổi danh mục TPCP và các chi phí liên quan do Bộ Tài chính quyết định theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017, Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 và các văn bản hướng dẫn, đảm bảo nguyên tắc không làm tăng tổng nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ quy về giá trị hiện tại tính theo giá thị trường...
Đối với nghiệp vụ mua lại, Bộ Tài chính trình Chính phủ báo cáo Quốc hội trong báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước năm 2020, dự toán ngân sách nhà nước năm 2021. Khối lượng mua lại, lãi suất chiết khấu, phương thức mua lại, thời điểm tổ chức mua lại TPCP và các chi phí liên quan do Bộ Tài chính quyết định theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017, Luật Ngân sách Nhà nước năm 2015 và các văn bản hướng dẫn...
Về hạn mức vay được Chính phủ bảo lãnh và vay thương mại trung và dài hạn nước ngoài của các DN, các tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay tự trả năm 2020, bao gồm: Mức bảo lãnh phát hành trái phiếu đối với 2 ngân hàng chính sách sẽ được xác định trên cơ sở Bộ Tài chính thẩm định hồ sơ đề nghị phát hành của 2 ngân hàng này theo quy định tại Nghị định số 91/2018/NĐ-CP ngày 26/6/2018 của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ; Rút vốn vay trong nước và nước ngoài của các DN được Chính phủ bảo lãnh tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc trong năm; Hạn mức vay thương mại nước ngoài trung, dài hạn của các DN, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay, tự trả tối đa 6.090 triệu USD; tốc độ tăng dư nợ nước ngoài ngắn hạn khoảng 16-18% so với dư nợ tại thời điểm 31/12/2019.
Về kế hoạch vay, trả nợ của chính quyền địa phương năm 2020, theo kế hoạch, vay trong nước 2.940 tỷ đồng và vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ 26.542 tỷ đồng. Trong khi đó, trả nợ của chính quyền địa phương 15.274 tỷ đồng, gồm chi trả gốc 12.482 tỷ đồng và chi trả lãi 2.792 tỷ đồng.
Quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững
Để tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiếp tục thực hiện quyết liệt, đồng bộ các quan điểm chỉ đạo và chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững tại Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 51/NQ-CP ngày 19/6/2017 của Chính phủ về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Đối với các khoản vay nước ngoài của Chính phủ cho chương trình, dự án, Thủ tướng giao các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương khẩn trương phân bổ kế hoạch đầu tư công vốn ngân sách trung ương năm 2020 chi tiết theo danh mục, mức vốn bố trí của từng dự án, gửi phương án phân bổ đối với phần vốn nước ngoài cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để theo dõi thực hiện và kiểm soát giải ngân theo dự toán.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Giao thông vận tải bố trí đủ vốn để thanh toán đầy đủ và đúng hạn các kỳ hạn nợ đến hạn từ 2021-2028 của Dự án La Sơn - Túy Loan và Dự án Quốc lộ 20, không để ảnh hưởng tiêu cực đến hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam và uy tín của Chính phủ. Các Bộ, ngành cần tăng cường phối hợp trong việc nghiêm túc thực thi các cam kết của Chính phủ, tránh tình trạng phối hợp không hiệu quả, không hết trách nhiệm dẫn đến việc chậm trả nợ. Đồng thời, thực hiện quản lý nhà nước, theo dõi, kiểm tra, giám sát, thanh tra, báo cáo và cung cấp thông tin về nợ công, nợ Chính phủ, nợ chính quyền địa phương theo quy định.
Đối với Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ giao xây dựng các Đề án Chiến lược nợ công giai đoạn 2021-2030 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; Đề án Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 trình Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định. Triển khai nghiệp vụ cơ cấu lại danh mục nợ TPCP phù hợp với điều kiện thị trường. Đồng thời, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về mức bảo lãnh phát hành trái phiếu cụ thể đối với Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển Việt Nam năm 2020 căn cứ Nghị định số 91/2018/NĐ-CP ngày 26/6/2018 của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ, Quyết định này và đề án phát hành trái phiếu của các ngân hàng.
Thủ tướng cũng giao Bộ Tài chính tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng đa dạng hóa về sản phẩm và cơ sở nhà đầu tư, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu. Cùng với đó, đánh giá việc triển khai công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia căn cứ Quyết định 304/QĐ-TTg ngày 6/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ, xây dựng Đề án nâng cao xếp hạng tín nhiệm quốc gia đến năm 2025 trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Đồng thời, Bộ Tài chính có trách nhiệm tăng cường năng lực quản lý nợ công theo quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017, trong đó tập trung đổi mới mô hình tổ chức, nâng cao chất lượng cán bộ, xây dựng cơ sở dữ liệu, thống kê; xem xét điều chỉnh phương pháp thống kê nợ nước ngoài của khu vực công và khu vực tư nhân theo nguyên tắc cư trú để phù hợp hơn với chuẩn mực quốc tế. Nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt chủ trương điều chỉnh khuôn khổ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia trong giai đoạn 2021-2025 theo hướng tách bạch quản lý nợ nước ngoài khu vực công và khu vực tư nhân, chỉ đề ra mức trần nợ công nước ngoài trên tổng dư nợ công; thiết lập chỉ tiêu cảnh báo (thay vì mức trần cứng) đối với chỉ tiêu trả nợ nước ngoài của khu vực công và khu vực tư nhân để có các biện pháp điều chỉnh kịp thời; báo cáo Thủ tướng Chính phủ về biện pháp quản lý các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và Chính phủ bảo lãnh...
Thủ tướng Chính phủ cũng giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hạn mức nợ nước ngoài tự vay tự trả của DN không được Chính phủ bảo lãnh, bảo đảm trong hạn mức được phê duyệt. Phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt chủ trương điều chỉnh khuôn khổ quản lý nợ nước ngoài của DN, tổ chức tín dụng theo phương thức tự vay, tự trả trong giai đoạn 2021-2025; báo cáo Thủ tướng Chính phủ về biện pháp quản lý các khoản vay nước ngoài của DN, tổ chức tín dụng không được Chính phủ bảo lãnh.
Chương trình quản lý nợ công 3 giai đoạn 2020-2022 và kế hoạch vay, trả nợ công năm 2020 nhằm mục tiêu đảm bảo nhiệm vụ huy động vốn vay để đáp ứng nhu cầu cân đối ngân sách nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội với mức độ chi phí - rủi ro phù hợp. Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong từng thời kỳ; phấn đấu đến cuối năm 2022, dư nợ công khoảng 51,4% GDP, nợ Chính phủ khoảng 46,2% GDP, cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công ở mức 40-45%; Thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước...