Chính sách tài khóa thúc đẩy doanh nghiệp phát triển

TS. NGUYỄN VIẾT LỢI - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính

Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và toàn diện, cùng với đó là những tác động mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội phát triển cho doanh nghiệp Việt Nam nhưng cũng có không ít thách thức đặt ra cần phải vượt qua.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

 Với việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam thể hiện quyết tâm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn mới.

Năng lực doanh nghiệp và môi trường kinh doanh của Việt Nam

Trong thời gian qua, số lượng doanh nghiệp (DN) mới được thành lập của Việt Nam ngày càng tăng. Trong năm 2017, cả nước có 126.859 DN thành lập mới, với số vốn đăng ký là 1.295.911 tỷ đồng, tăng 15,2% về số DN và tăng 45,4% về số vốn đăng ký so với năm 2016. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN trong năm 2017 đạt 10,2 tỷ đồng, tăng 26,2% so với năm trước.

Số DN đăng ký thành lập mới tiếp tục xu hướng tăng trong 6 tháng đầu năm 2018, khi cả nước có 64.531 DN đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là trên 649 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3% về số DN và tăng 8,9% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017; vốn đăng ký bình quân một DN thành lập mới đạt 10,1 tỷ đồng.

Tình hình kinh doanh của DN cũng được cải thiện. Tổng doanh thu và lợi nhuận sau thuế của các DN niêm yết tính đến hết quý I/2018 tiếp tục tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng doanh thu. Trong ngành công nghiệp, doanh thu và lợi nhuận có xu hướng tăng và tốc độ tăng của lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của doanh thu.

Tốc độ tăng doanh thu và lợi nhuận bình quân của năm 2017 so với năm 2016 lần lượt là 15,23% và 25,6%; Quý I/2018 tiếp tục xu hướng tăng so với quý I/2017 (15,24%). Ngành xây dựng tăng trưởng khá tốt với tốc độ tăng 15,39% trong năm 2017, đóng góp 0,45 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung.

Môi trường kinh doanh Việt Nam tiếp tục có những bước cải thiện đáng kể. Việt Nam được đánh giá đứng thứ 55/137 quốc gia về năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2017. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới năm 2017, môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc (từ 82/189 lên 68/190 của bảng xếp hạng).

Đây là mức tăng nhiều nhất Việt Nam đạt được trong thập niên qua. Xếp hạng của Việt Nam vượt khá nhiều nước trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó, chỉ số nộp thuế, tiếp cận điện năng và bảo vệ nhà đầu tư có mức độ cải thiện tốt nhất. Chỉ số này được ghi nhận nhờ những nỗ lực của Việt Nam trong cải thiện thủ tục nộp thuế và ứng dụng công nghệ thông tin, áp dụng giao dịch điện tử.

Xếp hạng tín nhiệm quốc gia Việt Nam đã được nâng từ mức ổn định lên mức tích cực trong năm 2017 (theo 3 tổ chức xếp hạng Moondy’s, Standards and Poor’s và Fitch). Chỉ số nhà quản trị mua hàng toàn phần lĩnh vực sản xuất của Việt Nam (PMI) tăng trong tháng 12/2017 đã tăng lên 52,5 điểm, điều này cho thấy, sự cải thiện mạnh trong lĩnh vực sản xuất và điều kiện kinh doanh.

Với những kết quả đạt được trên, bên cạnh các yếu tố khác, có thể khẳng định chính sách tài khóa đã tác động đến khu vực DN, góp phần đáng kể trong việc tạo niềm tin cho DN với tín hiệu lạc quan được các DN đưa ra trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình.

Theo khảo sát Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI 2017) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, niềm tin của cộng đồng DN vào môi trường kinh doanh đang được khơi dậy: 52% DN tư nhân trong nước và 60% DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho biết, họ sẽ mở rộng quy mô kinh doanh trong 2 năm tới. Đây là chỉ số niềm tin cao nhất của cộng đồng kinh doanh kể từ năm 2011 trở lại đây.

Những hỗ trợ từ chính sách tài khóa

Trong thời gian qua, đặc biệt từ năm 2011 cho đến nay, DN được hỗ trợ, tạo điều kiện để có thêm nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua giảm tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước (NSNN) trong chính sách thuế.

Theo đó, thuế suất thuế thu nhập DN (TNDN), thuế giá trị gia tăng (GTGT)... được ban hành, sửa đổi theo hướng giảm thuế suất, tăng cường ưu đãi thuế thông qua miễn thuế; gia hạn nộp thuế và các khoản thu NSNN… Cụ thể:

Thứ nhất, chú trọng các chính sách miễn, giảm thuế cho DN: Ngoài các chính sách miễn, giảm thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường chung bao gồm giảm thuế suất thuế TNDN phổ thông xuống còn 20% từ năm 2016, ưu đãi thuế có thời hạn, miễn thuế từ 2 – 4 năm và giảm tiếp 50% từ 5 – 9 năm theo địa bàn, theo lĩnh vực được áp dụng cho các DN có doanh thu từ thực hiện dự án đầu tư mới.

Áp dụng thuế suất 10% trong 15 năm đối với các DN có dự án mới ở các địa bàn đặc biệt khó khăn, DN hoạt động ở những lĩnh vực khoa học công nghệ, công nghệ cao, lĩnh vực bảo vệ môi trường, DN công nghệ cao hoặc DN ứng dụng công nghệ cao, các DN có dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất có điều kiện, DN sản xuất sản phẩm thuộc danh mục công nghiệp hỗ trợ...

Chính sách tài khóa thúc đẩy doanh nghiệp phát triển - Ảnh 1

Bên cạnh đó, danh mục nhóm hàng với mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi riêng đã được bổ sung đối với nguyên vật liệu, linh kiện, bộ phận phụ trợ để sản xuất các sản phẩm công nghệ miễn thuế nhập khẩu phụ tùng, linh kiện để sản xuất, lắp ráp phương tiện vận tải hành khách công cộng bằng xe buýt, trang thiết bị y tế; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho DN lĩnh vực công nghiệp phụ trợ.

Một số khoản thu nộp khác của DN đã được giảm như giảm mức phạt chậm nộp thuế cho DN từ 0,05%/ngày xuống 0,03%/ngày…

Thứ hai, chú trọng ưu đãi thuế cho các DN nhỏ và vừa (DNNVV), DN có dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp: DN khởi nghiệp được áp dụng thuế suất thuế TNDN thấp đối với DN mới thành lập từ dự án đầu tư; DN thực hiện chuyển giao công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho các tổ chức, cá nhân thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; Miễn thuế đối với một số khoản thu nhập từ thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và công nghệ; thu nhập từ bán sản phẩm làm ra từ công nghệ mới lần đầu tiên áp dụng ở Việt Nam, thu nhập từ bán sản phẩm sản xuất thử nghiệm; Cho phép DN được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế hàng năm để lập Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ.

Nhà đầu tư tham gia vào DN khởi nghiệp được hỗ trợ về thuế trong chuyển nhượng vốn với thuế suất 20% tính trên thu nhập từ chuyển nhượng vốn góp (áp dụng cho cả tổ chức và cá nhân). Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán của nhà đầu tư cá nhân được tính theo tỷ lệ 0,1% tính trên giá chuyển nhượng chứng khoán từng lần.

Nếu là cá nhân không cư trú cũng được tính thuế theo tỷ lệ 0,1% theo từng lần phát sinh thu nhập khi chuyển nhượng vốn hoặc chứng khoán.

DN siêu nhỏ có tổng doanh thu năm dưới 3 tỷ đồng, DNNVV có thể được hỗ trợ thông qua giảm thuế suất thuế TNDN xuống còn từ 15% - 17% theo dự thảo nhằm hỗ trợ cho một lớp đối tượng rất rộng trong cộng đồng DN. 

Thứ ba, hỗ trợ DN về mặt bằng sản xuất thông qua các chính sách miễn, giảm tiền thuê đất: Bên cạnh các chính sách miễn tiền thuê đất, thuê mặt nước trong thời gian xây dựng cơ bản theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt tối đa 03 năm kể từ ngày có quyết định cho thuê đất, thuê mặt nước (Nghị định số 46/2014/NĐ-CP); đồng thời, được tiếp tục miễn tiền thuê đất có thời hạn 11 năm, 15 năm hoặc toàn bộ thời gian xét theo địa bàn đầu tư.

Chính sách hỗ trợ DN về mặt bằng sản xuất thông qua giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 2011 và 2012 cho các tổ chức kinh tế đang hoạt động trong các ngành sản xuất; giảm 50% tiền thuê đất phải nộp của năm 2012 đối với một số tổ chức kinh tế cho DN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ; giảm 50% tiền thuê đất năm 2013, năm 2014 đối với các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất... đã được thực hiện góp phần không nhỏ trong hỗ trợ DN.

Ngoài ra, DNNVV sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển còn được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai.

Thứ tư, hỗ trợ DN để kích cầu tiêu dùng trong nước và thu hút nhân lực chất lượng cao: Theo Luật Thuế TNCN số 26/2012/QH13, người nộp thuế được nâng mức giảm trừ gia cảnh từ 4 triệu đồng/tháng lên 9 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên 3,6 triệu đồng/tháng.

Đối tượng được miễn giảm thuế thu nhập cá nhân được mở rộng thêm là chủ tàu, cá nhân có quyền sử dụng tàu từ hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ trực tiếp phục vụ khai thác, đánh bắt thủy sản xa bờ và thu nhập của thuyền viên làm việc trên tàu; Các cá nhân nhân lực công nghệ cao làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin; dịch vụ công nghệ cao được giảm 50% số thuế thu nhập cá nhân phải nộp đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công…

Thứ năm, cắt giảm thủ tục hành chính nhằm tạo thuận lợi cho DN: Các biện pháp cải cách thủ tục hành chính trong ngành Thuế, Hải quan bao gồm: (i) Bãi bỏ một số thủ tục hành chính rườm rà (năm 2016 đã bãi bỏ 92 thủ tục hành chính); (ii) Giảm số lần kê khai và nộp thuế GTGT từ 12 lần xuống còn 4 lần/ năm, thuế TNDN từ 5 lần/năm xuống còn 1 lần/năm đối với người nộp thuế có tổng doanh thu của hàng hóa, dịch vụ của năm liền trước từ 50 triệu đồng trở xuống; (iii) Tiếp tục mở rộng hệ thống khai thuế qua mạng (hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% các chi cục thuế trực thuộc với 623,7 nghìn DN tham gia, đạt 99,8% tổng số DN kê khai, 97,9% số DN đăng ký nộp thuế điện tử; (iv) Triển khai Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN giai đoạn 2016 – 2020; (v) Áp dụng thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu thương mại (VNACCS/VCIS) tại tất cả các đơn vị hải quan, đảm bảo chất lượng, không làm gián đoạn quá trình làm thủ tục hải quan của DN.

Những nỗ lực cải cách trong quản lý hành chính thuế, hải quan đã góp phần giảm thiểu giấy tờ, rút ngắn thời gian, giảm chi phí thực hiện các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, xuất nhập khẩu.

Theo báo cáo môi trường kinh doanh toàn cầu được Ngân hàng Thế giới công bố ngày 31/10/2017, Việt Nam xếp thứ 68/190 quốc gia và vùng lãnh thổ (tăng 14 bậc so với năm 2017), trong đó chỉ số nộp thuế (Paying Taxes) xếp thứ 86/190 (tăng 81 bậc so với năm 2017), đứng thứ 4 trong nhóm nước ASEAN.

Bên cạnh giảm động viên vào NSNN, trong những năm qua Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ từ NSNN cho phát triển DN, thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển DN trong giai đoạn mới và bắt kịp cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cụ thể:

Một là, chính sách trợ giúp phát triển DN siêu nhỏ, DNNVV theo Luật Hỗ trợ DNNVV và Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 với 8 nhóm giải pháp hỗ trợ DN trên các phương diện: Tiếp cận tín dụng; Quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV; Hỗ trợ thuế, kế toán; Mặt bằng sản xuất; Công nghệ, cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc chung; Mở rộng thị trường; Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý; Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.

Trong đó, NSNN trợ giúp tài chính hỗ trợ tối thiểu 50% tổng chi phí khóa đào tạo khởi sự kinh doanh và quản trị DN và miễn học phí cho các DNNVV do nữ làm chủ, DN thuộc địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Hỗ trợ đào tạo nghề; Hỗ trợ sử dụng dịch vụ tư vấn; Hỗ trợ giá thuê mặt bằng cho DNNVV tại các khu công nghiệp, khu công nghệ cao tối đa 05 năm theo điều kiện ngân sách địa phương…

Bên cạnh những hỗ trợ chung cho DNNVV, chính sách của Chính phủ còn tập trung hỗ trợ DNNVV chuyển đổi từ hộ kinh doanh thông qua hướng dẫn, tư vấn miễn phí về hồ sơ, thủ tục thành lập DN; Miễn phí lệ phí đăng ký DN và phí cung cấp thông tin DN lần đầu; tư vấn, hướng dẫn miễn phí về các thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong 03 năm đầu; Miễn giảm thuế TNDN có thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế TNDN; Miễn giảm tiền sử dụng đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai…

Đối với DNNVV khởi nghiệp sáng tạo, Chính phủ hỗ trợ ứng dụng chuyển giao công nghệ, hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại cơ sở ký thuật, hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo; Hướng dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới; Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản phẩm, thu hút đầu tư; hỗ trợ thông tin truyền thông, xúc tiến thương mại… NSNN hỗ trợ thông qua tổ chức tài chính nhà nước của địa phương đầu tư vào DNNVV khởi nghiệp sáng tạo; Chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của DNNVV khởi nghiệp sáng tạo được thực hiện thông qua tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.

Đối với DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị sẽ được hỗ trợ về đào tạo chuyên sâu về công nghệ, kỹ thuật sản xuất; Cung cấp thông tin về nhu cầu kết nối, sản xuất kinh doanh; Hỗ trợ phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường; NSNN hỗ trợ thông qua chính sách cấp bù lãi suất đối với khoản vay của DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị thông qua các tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.

Hai là, chính sách hỗ trợ ngành, lĩnh vực: Để đẩy mạnh thu hút DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển mạnh mẽ các loại hình DN nông nghiệp, Chính phủ đã có các chính sách ưu đãi và hỗ trợ như: Miễn, giảm tiền sử dụng đất; Miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; Hỗ trợ tập trung đất đai với kinh phí tương đương 20% tiền thuê đất, thuê mặt nước cho 05 năm đầu tiên kể từ khi dự án hoàn thành đi vào hoạt động; Hỗ trợ tín dụng; Hỗ trợ DN nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao; Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, phát triển thị trường; Hỗ trợ đầu tư cơ sở bảo quản, chế biến nông sản, giết mổ gia súc, thế tạo thiết bị, linh kiện, máy nông nghiệp...

Theo đó, ngân sách trung ương dành tối thiểu 5% vốn đầu tư phát triển hàng năm, ngân sách địa phương dành tối thiểu 5% vốn chi ngân sách địa phương hàng năm cho ngành Nông nghiệp, hỗ trợ sau đầu tư… Ngoài ra, chính sách hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp trong từng thời kỳ được thực hiện để bảo hiểm rủi ro thiên tai, rủi ro dịch bệnh đối với một số cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản.

Theo đó, các tổ chức sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, quy mô lớn có ứng dụng khoa học công nghệ cao sẽ được hỗ trợ tối đa 20% phí bảo hiểm nông nghiệp từ NSNN (Nghị định số 58/2018/NĐ-CP).

Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành một số chính sách hỗ trợ cho DN khai thác thủy sản, ví dụ như hỗ trợ một lần sau đầu tư đối với tàu cá đóng mới khai thác hải sản xa bờ, tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ vỏ thép, vỏ composite với mức hỗ trợ 35% giá trị đầu tư đóng mới tùy theo công suất từ 800 CV đến trên 1000 CV…

Ba là, hỗ trợ DN sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ: Chương trình hỗ trợ gồm các hoạt động: Kết nối, hỗ trợ DN công nghiệp hỗ trợ trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng trong và ngoài nước, xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài và lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (mức hỗ trợ tối đa từ 70% - 100% tùy trường hợp); Hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của các chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị DN, quản trị sản xuất (mức hỗ trợ tối đa 100%); Hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (mức hỗ trợ tối đa 70%); Hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu vật liệu (mức hỗ trợ tối đa theo 3 mức 50%, 70% và 100% tùy hoạt động); Xây dựng và công bố thông tin về công nghiệp hỗ trợ hàng năm (mức hỗ trợ tối đa 100%). Kinh phí hỗ trợ từ nguồn NSNN hàng năm.

Bên cạnh các chính sách trên, NSNN còn dành nguồn lực cho các chương trình xúc tiến thương mại giúp DN giới thiệu, quảng bá sản phẩm, mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài.

Mức hỗ trợ kinh phí đối với: (i) Chương trình Xúc tiến thương mại định hướng xuất khẩu là 70% đối với các khoản chi chi hỗ trợ thông tin thương mại, nghiên cứu thị trường, xây dựng cơ sở dữ liệu các thị trường xuất khẩu trọng điểm theo ngành hàng, chi hỗ trợ tuyên truyền xuất khẩu; (ii) Hỗ trợ 50% các khoản chi phí như thuê mặt bằng và thiết kế, dàn dựng gian hàng, dịch vụ phục vụ như điện nước, vệ sinh, an ninh, bảo vệ đối với các chương trình hội chợ, triển lãm tại các địa phương; (iii) Hỗ trợ 100% các khoản chi phí đối với các chương trình xúc tiến thương mại miền núi, biên giới và hải đảo về chi phí vận chuyển; chi phí thuê mặt bằng, dàn dựng gian hàng, điện nước, an ninh, vệ sinh… Chương trình phát triển thương mại điện tử miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015-2020.

Khó khăn, thách thức đặt ra

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện, DN Việt Nam cũng đối mặt với không ít thách thức.

Cùng với quá trình hội nhập, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi kinh tế thế giới với sự vươn lên mạnh mẽ của các nước chủ yếu dựa vào công nghệ hiện đại, đổi mới và sáng tạo. Vì vậy, dù đã có nhiều nỗ lực trong việc ban hành các chính sách tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ và phát triển DN, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một hạn chế sau:

Một là, một số chính sách thuế vẫn chưa thực sự góp phần tháo gỡ khó khăn cho DN. Ví dụ như chính sách thuế cho DN khởi nghiệp vẫn còn là những chính sách chung chung, chưa có chính sách đặc thù cho phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia (các DN khởi nghiệp áp dụng thuế suất thuế TNDN phổ thông như các DN khác là 20%, ưu đãi thuế suất hay miễn thuế vẫn theo ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn như các dự án đầu tư mới khác…).

Chưa có quy định chính sách thuế phân biệt đối với nhà đầu tư vào DN khởi nghiệp khi chuyển nhượng vốn.

Chính sách thuế hiện quy định đánh thuế đối với từng lần chuyển nhượng vốn, từng lần chuyển nhượng chứng khoán đối với việc đầu tư vào bất kỳ DN nào sau đó chuyển nhượng vốn… Các vướng mắc về mặt hàng chịu thuế GTGT như phân bón, trục chà lúa… Bên cạnh đó, vấn đề về thủ tục hành chính vẫn tiếp tục cần được cải cách để tạo thuận lợi hơn cho người dân, DN…

Hai là, các chính sách hỗ trợ cho DN mang tính khuyến khích chung, chưa cụ thể dẫn đến những khó khăn trong việc triển khai thực hiện, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ tài chính, mặt bằng sản xuất, ươm tạo DN...

Đối với chính sách chi NSNN cho các chương trình xúc tiến thương mại, tuy đã có những ưu điểm nhất định nhưng còn dàn trải, chưa tập trung, nguồn lực hạn chế, liên kết giữa khâu sản xuất và đầu ra còn yếu kém dẫn đến việc chi hỗ trợ từ NSNN còn chưa hiệu quả và chưa đạt được mục tiêu của chương trình.

Các chính sách chi cho thí điểm bảo hiểm xuất khẩu vẫn chưa đạt được những mục tiêu đặt ra, việc triển khai thí điểm gặp khó khăn vì các DN xuất khẩu còn chưa mua mua bảo hiểm ngay cả khi có sự hỗ trợ của Nhà nước…

Một số khuyến nghị

Để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ DN đủ năng lực để cạnh tranh khi nền kinh tế hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, trong thời gian tới cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau:

Thứ nhất, triển khai thực hiện tốt các luật về thuế đã được Quốc hội thông qua nhằm giúp DN thực hiện chính sách một cách hiệu quả; Tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách theo hướng tháo gỡ khó khăn cho DN.

Trong đó, đề xuất chuyển các đối tượng đang không chịu thuế GTGT như: Phân bón, tàu đánh bắt xa bờ và một số loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp sang đối tượng chịu thuế GTGT để DN được khấu trừ chi phí đầu vào; Bổ sung quy định DN sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế GTGT 5% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết sau 12 tháng hoặc 4 quý thì được hoàn thuế GTGT để DN tích tụ vốn đưa vào sản xuất; Nghiên cứu ban hành chính sách thuế hỗ trợ phát triển nông nghiệp sạch, khởi nghiệp sáng tạo…; Tiếp tục rà soát hoàn thiện các tiêu chí ưu đãi thuế hiện hành để đảm bảo tính minh bạch, qua đó tạo thuận lợi cho DN đủ điều kiện có được các ưu đãi cần thiết.

Đối với DN khởi nghiệp sáng tạo, chính sách cần được thiết kế với mục tiêu hỗ trợ cho các nhà đầu tư khởi nghiệp; nghiên cứu xây dựng chính sách thuế đặc thù cho DN khởi nghiệp sáng tạo,…

Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử. Đối với lĩnh vực thuế, hải quan cần: Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế; Ban hành chế độ quản lý rủi ro đối với các DN thuộc đối thượng thanh tra/kiểm tra về thuế; Tiếp tục sửa đổi quy định về hồ sơ hoàn thuế, phần mềm hỗ trợ công tác tự động xây dựng báo cáo hồ sơ hoàn thuế; Triển khai đồng bộ, rộng khắp ứng dụng CNTT; Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để đảm bảo việc triển khai đầy đủ hệ thống thông quan điện tử VNACCS/VCIS…

Thứ ba, rà soát, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ phát triển DN để đảm bảo việc hỗ trợ có trọng tâm, trọng điểm, đúng mục tiêu, đúng đối tượng cần hỗ trợ. Ngoài ra, tăng cường công tác tuyên truyền hệ thống chính sách thuế và thu ngân sách, tạo sự minh bạch, rõ ràng, hỗ trợ DN trong hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước.             

Tài liệu tham khảo:

1. Sách “Tài chính Việt Nam 2016 - Tăng cường kỷ cương, kiến tạo động lực”,
Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (2017), NXB Tài chính;

2. Sách “Tài chính Việt Nam 2017 – Đối diện thách thức, đổi mới tư duy”,
Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính (2018), NXB Tài chính;

3. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Diễn đàn DN phát triển bền vững Việt Nam lần thứ 4;

4. Học viện Tài chính (2018), “Xây dựng chính sách tài chính đặc thù cho DN khởi nghiệp”, Kỷ yếu hội thảo khoa học, T5/2018;

5. Báo cáo tài chính của các DN niêm yết 2017;

6. VCCI, 2017, Báo cáo Nghiên cứu "Cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo - kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam”.