Bộ Tài chính không có cơ sở ban hành quy định thu phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ

Việt Dũng

Theo quy định tại Luật Khoáng sản và Nghị định số 158/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản, Bộ Tài chính không có cơ sở để ban hành quy định thu phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ, nghiệm thu thực hiện đề án đóng cửa mỏ; đồng thời, không có thẩm quyền quy định mức hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác khoáng sản.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, Bộ Tài chính đã nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Nam do Ban Dân nguyện chuyển tới đề nghị Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn quy định mức thu phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ; đồng thời, ban hành quy định mức hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác khoáng sản theo quy định tại Khoản 2 Điều 5 Luật Khoáng sản và Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ.

Ngày 21/9/2021 Bộ Tài chính đã có Công văn số 10902/BTC-CST trả lời kiến nghị của cử tri tỉnh Hà Nam. Theo đó, Bộ Tài chính cho biết, Danh mục phí, lệ phí ban hành kèm theo Luật Phí và lệ phí không quy định phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ, nghiệm thu thực hiện đề án đóng cửa mỏ. Đồng thời, Luật Khoáng sản cũng không quy định về phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ, nghiệm thu thực hiện đề án đóng cửa mỏ.

Vì vậy, Bộ Tài chính không có cơ sở để ban hành quy định thu phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ, nghiệm thu thực hiện đề án đóng cửa mỏ.

Bộ Tài chính cho biết thêm, liên quan đến nội dung trên, ngày 01/8/2018, Bộ Tài chính đã có công văn số 9186/BTC-CST đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát, báo cáo Chính phủ xem xét bãi bỏ khoản 4 Điều 45 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản về việc Bộ Tài chính quy định mức thu, quản lý, sử dụng phí thẩm định đề án đóng cửa mỏ, nghiệm thu thực hiện đề án đóng cửa mỏ.

Đối với đề nghị ban hành quy định mức hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác khoáng sản, Bộ Tài chính cho biết, Luật Khoáng sản và Nghị định số 158/2016/NĐ-CP không giao Bộ Tài chính quy định mức hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản của các tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác khoáng sản. Như vậy, Bộ Tài chính không có thẩm quyền quy định mức hỗ trợ.

Theo Bộ Tài chính, việc quy định mức hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản, Khoản 2 Điều 5 Luật Khoáng sản có quy định, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản có trách nhiệm hỗ trợ chi phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ tầng kỹ thuật sử dụng trong khai thác khoáng sản và xây dựng công trình phúc lợi cho địa phương nơi có khoáng sản được khai thác theo quy định của pháp luật;

Kết hợp khai thác với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ, phục hồi môi trường theo dự án đầu tư khai thác khoáng sản; nếu gây thiệt hại đến hạ tầng kỹ thuật, công trình, tài sản khác thì tùy theo mức độ thiệt hại phải có trách nhiệm sửa chữa, duy tu, xây dựng mới hoặc bồi thường theo quy định của pháp luật;  Ưu tiên sử dụng lao động địa phương vào khai thác khoáng sản và các dịch vụ có liên quan; Cùng với chính quyền địa phương bảo đảm việc chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân có đất bị thu hồi để khai thác khoáng sản.

Bên cạnh đó, tại Điều 16 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP cũng quy định việc hỗ trợ địa phương và người dân nơi có khoáng sản được khai thác theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Khoáng sản do tổ chức, cá nhân khai thác trực tiếp thực hiện.

Theo đó, đối với các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản thông báo nội dung, khối lượng; kế hoạch, chương trình thực hiện các công việc, các hạng mục công trình hỗ trợ đến Ủy ban nhân dân cấp xã; thông báo công khai đến tổ dân phố/thôn/bản để người dân nơi có khoáng sản cử đại diện tham gia giám sát quá trình thực hiện.