Cơ hội và thách thức cho Việt Nam khi hội nhập lĩnh vực mua sắm công
Vấn đề mua sắm công đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia, vì vậy các chính phủ đều hướng tới mục tiêu tiết kiệm và nâng cao hiệu quả chi tiêu công. Hội nhập lĩnh vực mua sắm công trong những năm qua đã trở thành xu hướng phát triển tất yếu trên thế giới đặc biệt là tại các quốc gia phát triển. Việc tăng cường hoạt động đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tự do có nội dung mua sắm công đã khẳng định ý chí, mục tiêu của Việt Nam trong việc xây dựng môi trường mua sắm công thực sự minh bạch, hiệu quả, phù hợp chuẩn mực và thông lệ quốc tế, từ đó giúp nâng cao hơn nữa vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Giới thiệu
Mua sắm công hay mua sắm của chính phủ (public procurement) thường được gọi là “đấu thầu” tại Việt Nam, được hiểu là hoạt động mua sắm do chính phủ và các cơ quan sử dụng vốn ngân sách nhà nước thực hiện nhằm mua sắm các loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ hoạt động thường xuyên, đầu tư phát triển và thực hiện các chức năng của Nhà nước. Vấn đề mua sắm công đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Ở phạm vi toàn cầu, Việt Nam chưa tham gia Hiệp định mua sắm chính phủ (GPA) trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) với tư cách thành viên, song đã trở thành quan sát viên thứ 26 của GPA từ năm 2012 đến nay. Ở góc độ hẹp hơn, Việt Nam đã ký kết một số hiệp định thương mại tự do (FTA) về mua sắm công, điển hình là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mai tự do Việt Nam - EU (EVFTA). 2 hiệp định trên đều đã có hiệu lực. Cùng xu hướng phát triển chung của thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu tư hiện vẫn tiếp tục tham gia đàm phán nội dung mua sắm công trong các FTA khác (EFTA, VIFTA, AANZFTA...).
CPTPP và EVFTA là 2 FTA thế hệ mới với mức độ tự do hóa cao, phạm vi tự do hóa rộng. Nhiều nội dung cam kết mở cửa lĩnh vực mua sắm công của Việt Nam trong CPTPP, EVFTA tương đương với cam kết trong GPA, do đó, việc triển khai thực hiện các FTA này có ý nghĩa quan trọng, mang tính tiền đề, thí điểm nhất định đối với Việt Nam hướng tới việc chính thức trở thành thành viên của GPA trong dài hạn. Bài viết này, nhận diện và phân tích một số cơ hội, thách thức chính đặt ra đối với Việt Nam khi thực thi cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm công theo CPTPP và EVFTA.
Mua sắm công trong CPTPP và EVFTA
CPTPP và EVFTA là 2 hiệp định đầu tiên Việt Nam ký kết có nội dung về mua sắm công. Các cam kết mở cửa lĩnh vực mua sắm công trong cả CPTPP và trong EVFTA đều theo từng bước, có lộ trình rõ ràng và tương đương với cam kết trong trong GPA. Mặc dù vậy, nội dung cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm công giữa CPTPP và EVFTA cũng có những điểm khác biệt nhất định.
Về hình thức cam kết, trong EVFTA, 2 bên xây dựng biểu cam kết cụ thể theo cách tiếp cận chọn – cho (liệt kê các ngành, phân ngành có cam kết mở cửa thị trường). Biểu cam kết cụ thể EVFTA chỉ phải chịu nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng, tức là trong trường hợp chính sách trong nước cho phép mở cửa hơn so với mức độ cam kết thì trong tương lai nếu thay đổi chính sách này sẽ không được kém hơn mức cam kết tại thời điểm hiệp định có hiệu lực. Trong khi tại CPTPP, các nước xây dựng biểu cam kết theo cách tiếp cận chọn-bỏ (liệt kê các ngành, phân ngành bị hạn chế về mở cửa thị trường).
Về diện cam kết, trong CPTPP, Việt Nam chỉ cam kết mở cửa đối với mua sắm của 21 bộ, ngành trung ương và không cam kết mở cửa đối với các cơ quan cấp địa phương và các tập đoàn, tổng công ty. Tuy vậy, trong EVFTA, Việt Nam cam kết mở cửa mua sắm đối với cả các cơ quan ở cấp trung ương và địa phương, cụ thể là 20 bộ, ngành trung ương, một số đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng, 02 địa phương (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh) và các đơn vị Tập đoàn điện lực Việt Nam, Tổng công ty đường sắt Việt Nam, 34 bệnh viện thuộc Bộ Y tế, Đại học quốc gia Hà Nội, Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh và một số Viện thuộc Trung ương.
Về mức độ mở cửa, EVFTA có mức độ mở cửa theo cam kết cao hơn nhiều so với CPTPP ở cả cấp mua sắm trung ương và đối với cả hàng hóa, dịch vụ và dịch vụ xây dựng. Tại EVFTA, ngưỡng giá trị gói thầu mua sắm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện điều chỉnh trong 5 năm đầu sau khi hiệp định có hiệu lực là 1,5 triệu SDR, trong khi mức này tại CPTPP là 2 triệu SDR. Ngưỡng giá trị của gói thầu xây dựng trong 5 năm đầu tại EVFTA là 40 triệu SDR trong khi tại CPTPP là 65,2 triệu SDR…
Cơ hội, thuận lợi đối với Việt Nam
Tham gia CPTPP và EVFTA mang lại cho Việt Nam cơ hội nhất định liên quan đến lĩnh vực mua sắm công cho Việt Nam.
Một là, nâng cao nhận thức về mua sắm công và xu hướng hội nhập lĩnh vực mua sắm công.
Tham gia CPTPP và EVFTA mang lại cho Việt Nam cơ hội nâng cao nhận thức về vấn đề mua sắm công và xu hướng phát triển, hội nhập lĩnh vực này. Quyết định số 121/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện CPTPP ban hành ngày 24/01/2019 đã đưa công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về CPTPP và thị trường của các nước tham gia hiệp định là nhiệm vụ hàng đầu trong năm nhóm nhiệm vụ chủ yếu mà các các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hoá và tổ chức triển khai thực hiện ngay từ trong năm 2019 trở đi.
Trong lĩnh vực mua sắm công, các đơn vị như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Trung tâm WTO của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các bộ ngành và một số địa phương… đã tích cực đăng tải các thông tin về mua sắm công, những thông tin liên quan đến cam kết hội nhập và việc Việt Nam lần đầu mở cửa lĩnh vực này.
So với các quốc gia phát triển có bề dày kinh nghiệm mua sắm công, Việt Nam hiện mới ở nấc thang đầu tiên của tiến trình phát triển và hội nhập và còn khoảng cách rất xa với các quốc gia này. Việc tham gia ký kết mở cửa lĩnh vực mua sắm công trong CPTPP và EVFTA là cơ hội tốt cho các đối tượng có liên quan để tìm hiểu, từng bước nâng cao nhận thức, kiến thức về mua sắm công và xu hướng hội nhập lĩnh vực này trên thế giới.
Hai là, khuyến khích và đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý về mua sắm công hướng tới phù hợp thông lệ quốc tế và xu hướng hội nhập.
CPTPP và EVFTA được cho là cơ hội khuyến khích và đẩy mạnh cải cách, hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý trong nước, trong đó có lĩnh vực mua sắm công. Việt Nam là quan sát viên của GPA nên vẫn chưa bị ràng buộc bởi bất kỳ cam kết nào liên quan tới mua sắm công hay phải tuân thủ bất kỳ nghĩa vụ nào trong Hiệp định này.
Từ quá trình hoàn thiện pháp luật về đấu thầu cho thấy: (i) Các cam kết của Chương Mua sắm công trong EVFTA, CPTPP được xây dựng hoàn toàn dựa theo lời văn trong GPA, mà Việt Nam đã là quan sát viên của GPA từ giai đoạn đầu tiên của quá trình đàm phán EVFTA; (ii) Việt Nam sửa hệ thống pháp luật về đấu thầu cụ thể là Luật Đấu thầu vào năm 2013, tức là sau khi đã trở thành quan sát viên của GPA và cùng thời điểm đang đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và EVFTA. Do đó, pháp luật đấu thầu hiện hành của Việt Nam đã tương thích với phần lớn các cam kết trong EVFTA về mua sắm công như các khái niệm, các nguyên tắc cơ bản liên quan tới hồ sơ mời thầu… hoặc các nghĩa vụ chung về minh bạch, cạnh tranh trong trình tự, thủ tục đấu thầu... Thời điểm sửa đổi Luật Đấu thầu năm 2013, Việt Nam đã xác định sẽ phải sửa đổi hệ thống pháp luật về đấu thầu trong tương lai để phù hợp với GPA và các cam kết tương tự trong TPP và EVFTA nên đã chủ động đưa nhiều nguyên tắc cơ bản của GPA vào Luật Đấu thầu 2013.
Luật Đấu thầu năm 2013 đã có các quy định phù hợp với thông lệ quốc tế về đấu thầu, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế như quy định chưa hợp lý, thiếu tính minh bạch. Theo Luật Đấu thầu 2013 (Điều 15), các nhà thầu nước ngoài được tham dự đấu thầu với các nhà thầu trong nước chỉ trong một số trường hợp như “do nhà tài trợ vốn cho gói thầu chỉ định” hoặc trong trường hợp các nhà thầu trong nước không đáp ứng được yêu cầu về “chỉ tiêu chất lượng hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật”. Luật Đấu thầu 2013 (Điều 14) còn có quy định liên quan đến việc ưu đãi trong lựa chọn nhà thầu quốc tế nhằm ưu tiên, khuyến khích nhà thầu, doanh nghiệp trong nước một cách bất bình đẳng với nhà thầu, doanh nghiệp nước ngoài (tỷ lệ chi phí sản xuất trong nước từ 25% trở lên, nhà thầu liên doanh…). Nếu xét từ góc độ đảm bảo sự tương thích, phù hợp của một văn bản pháp luật quốc gia với các điều ước quốc tế cùng điều chỉnh một lĩnh vực thì những quy định này là rào cản lớn đối với Việt Nam khi hội nhập quốc tế. CPTPP và EVFTA là số ít FTA Việt Nam ký kết có nội dung mua sắm công, do đó đây là cơ hội, động lực quan trọng cho Việt Nam hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý về mua sắm công phù hợp thông lệ quốc tế và xu hướng hội nhập. Trong ngắn hạn, CPTPP và EVFTA với các cam kết về mua sắm công sẽ giúp Việt Nam tăng cường công khai, minh bạch đối với hoạt động mua sắm. Bởi lẽ, sau giai đoạn quá độ, khi có sự tham gia của các nước thành viên, nếu không minh bạch, chuẩn chỉnh thì Việt Nam có thể dễ dàng bị nhà thầu nước ngoài khởi kiện.
Ba là, thúc đẩy thị trường mua sắm công của Việt Nam phát triển và mua sắm hiệu quả.
Tham gia EVFTA và CPTPP mở ra cơ hội tốt đối với Việt Nam cũng như các nước thành viên trong hoạt động mua sắm công. Việc thực hiện các cam kết mua sắm công trong hai hiệp định này sẽ thúc đẩy thị trường mua sắm công nước ta phát triển, từng bước hòa nhịp cùng với khu vực và thế giới. Trong ngắn hạn, các cam kết mở cửa lĩnh vực mua sắm công trong CPTPP, EVFTA sẽ giúp chúng ta tăng cường công khai, minh bạch đối với hoạt động mua sắm, đồng thời, góp phần giúp công tác mua sắm cạnh tranh, hiệu quả sử dụng NSNN cao hơn, mua được nhiều hàng hóa chất lượng tốt với chi phí phù hợp. Hàng hóa xuất xứ từ các nước thành viên của CPTPP và EVFTA có tính bổ sung cho hàng hóa Việt Nam... Trình độ quản lý chuyên nghiệp, hiện đại và bề dày kinh nghiệm của các nhà thầu nước ngoài cũng thúc đẩy các nhà thầu trong nước học hỏi và dần hoàn thiện bản thân. Về dài hạn, khi năng lực của các nhà thầu trong nước được cải thiện thì sẽ dần cạnh tranh lành mạnh được với nhà thầu nội khối.
Tham gia CPTPP và EVFTA mở ra cho các nhà thầu Việt Nam một sân chơi rộng lớn, giúp các nhà thầu Việt Nam có cơ hội lớn để tham gia và thắng thầu tại các gói thầu, dự án của 40 nước thành viên nội khối. Điều này sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp Việt từng bước tham gia các gói thầu tại thị trường nội khối.
Bốn là, nâng cao năng lực cạnh tranh cho nhà thầu Việt Nam.
Hội nhập lĩnh vực mua sắm công theo cam kết trong CPTPP và EVFTA tạo ra nhiều sức ép song cũng mở ra không ít cơ hội đối với các nhà thầu Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập, một số thách thức, sức ép phải đương đầu sẽ tạo thành cơ hội, động lực mạnh mẽ thúc đẩy cộng đồng nhà thầu Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của mình.
Trong ngắn hạn, Việt Nam vẫn giữ lại sân chơi cho các nhà thầu Việt Nam với nhiều biện pháp trong giai đoạn chuyển đổi và đây thực sự là cơ hội, là “giai đoạn vàng” cho doanh nghiệp Việt Nam dần thích nghi và nâng cao năng lực cạnh tranh để trong tương lai có thể cạnh tranh lành mạnh với các nhà thầu nước ngoài tại các nước thành viên. Trong CPTPP, Việt Nam được phép yêu cầu, xem xét áp dụng hoặc thực hiện bất kỳ hình thức ưu đãi trong nước trong bất kỳ giai đoạn nào của quy trình lựa chọn nhà thầu trong 10 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực (cơ chế ưu đãi về giá ở mức tối đa 40% tổng giá trị hợp đòng các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của từng năm). Biện pháp ưu đãi nội địa sẽ được loại bỏ từ năm thứ 26 kể từ khi CPTPP có hiệu lực đối với Việt Nam.
Cùng với sự củng cố, gia tăng năng lực cạnh tranh, các nhà thầu Việt Nam được tiếp cận thông tin công khai về gói thầu của các nước thành viên trên các cổng thông tin chính thức và hoàn toàn có thể hòa nhập, cạnh tranh công bằng với nhà thầu quốc tế, từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh toàn cầu cho doanh nghiệp Việt.
Năm là, thu hút đầu tư nước ngoài từ các quốc gia phát triển.
Thực hiện cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm công trong khuôn khổ 2 hiệp định trên sẽ mang lại cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài từ các nước có nền kinh tế phát triển. Thị trường mua sắm công ở các quốc gia phát triển được cho là đã đạt đến mức độ bão hòa, trong khi thị trường của các quốc gia đang phát triển vốn chưa có sự ổn định và nhu cầu mua sắm công nhiểu, do đó các quốc gia đang phát triển sẽ là nơi mà các nhà đầu tư của các quốc gia phát triển tìm kiếm và hướng đến. Với quốc gia đang phát triển, hội nhập lĩnh vực mua sắm công sẽ mang lại cơ hội lựa chọn nhà đầu tư có trình độ cao. Điều này sẽ tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cộng đồng doanh nghiệp Việt nâng cao sức cạnh tranh và tiến tới tham gia các gói thầu tại thị trường mua sắm nội khối.
Một số khó khăn, thách thức
Việc thực hiện các cam kết liên quan đến lĩnh vực mua sắm công của 2 Hiệp định CPTPP và EVFTA cũng tạo ra một số thách thức đối với Việt Nam gồm:
Một là, khung khổ pháp luật về mua sắm công còn chưa tương thích.
Mở cửa, hội nhập lĩnh vực mua sắm công theo cam kết trong CPTPP và EVFTA sẽ đặt ra thách thức nhất định cho Việt Nam trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý phù hợp trong thời gian tới. Qua rà soát, hệ thống chính sách của Việt Nam về mua sắm công hiện nay còn chưa tương thích hoặc mới tương thích một phần với các cam kết trong các hiệp định, đồng thời việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm trễ.
Trong cam kết của EVFTA, có những quy định mà pháp luật Việt Nam đã phù hợp một phần với các cam kết trong EVFTA như: khái niệm về chỉ định thầu, biện pháp ưu đãi trong nước, dịch vụ; các nguyên tắc chung; thông báo mời thầu; lựa chọn danh sách ngắn. Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác biệt hoàn toàn với những quy định pháp luật đấu thầu hiện hành của nước ta như về định nghĩa khái niệm cơ quan mua sắm; phạm vi; nguyên tắc chung (cam kết về đối xử quốc gia, không phân biệt đối xử); đăng tải thông tin về gói thầu; chỉ định thầu.
Trong thời gian tới, để thực thi có hiệu quả các cam kết hội nhập mua sắm công, cần phải sửa đổi, bổ sung những quy định chưa tương thích và phát huy tốt những quy định đã có trong pháp luật Việt Nam. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chung về mua sắm công theo hướng nhất thể hóa (Luật Đấu thầu), tức là không chia hai loại văn bản pháp luật riêng cho các gói thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của các FTA và pháp luật đấu thầu chung như hiện nay được coi là thách thức lớn bởi đòi hỏi nỗ lực lớn về tư duy, thể chế cũng như nguồn lực thực hiện.
Hai là, khả năng của các cơ quan mua sắm của Việt Nam trong việc tuân thủ cam kết mở cửa lĩnh vực còn hạn chế.
Thách thức đặt ra đối với cơ quan thực hiện mua sắm công là phải tuân thủ, thực hiện đúng các nguyên tắc trong cam kết về đảm bảo công khai, minh bạch. Theo cam kết trong CPTPP và EVFTA, các thông tin về mua sắm công như: Thông báo mời thầu, thông báo tóm tắt, kế hoạch lựa chọn nhà thầu, các thông tin sau khi trao hợp đồng… sẽ được đăng tải công khai trên Báo Đấu thầu. Việc tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch là một phần trách nhiệm của Việt Nam và sẽ được các nước thành viên theo dõi, đánh giá. Bên cạnh đó, vấn đề ngôn ngữ trong đấu thầu mua sắm là một trong thách thức, rào cản đặt ra trong ngắn hạn đối với các cơ quan mua sắm và cả đơn vị tham gia thầu của nước ta bởi tiếng Việt và tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng chính thức trong đấu thầu.
Ba là, năng lực cạnh tranh của nhà thầu Việt Nam so với nhà thầu nước ngoài còn hạn chế.
Trong thời gian tới, khả năng thắng thầu của các nhà thầu Việt Nam tại thị trường trong nước có thể bị thu hẹp do phải cạnh tranh với nhiều đối thủ lớn với bề dày kinh nghiệm dự thầu và lợi thế về hàng hóa chất lượng cao. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tình trạng việc làm, thị phần của doanh nghiệp nước ta tại thị trường trong nước. Đặc biệt, việc mở cửa thị trường mua sắm công trong CPTPP và EVFTA còn là thách thức lớn đối với các doanh nghiệp nhà nước đang quen hưởng lợi từ sự đóng cửa, hay mở cửa hạn chế của thị trường. Trong khi đó, Việt Nam không được đưa ra các chính sách để ưu tiên mua hàng trong nước, khuyến khích phát triển các ngành sản xuất trong nước (nguyên tắc cơ bản nhất là đối xử quốc gia và không phân biệt đối xử; không được ưu đãi hàng hóa hay dịch vụ của nhà thầu nội).
Trên thị trường nội khối, việc tiếp cận thị trường mua sắm theo cam kết trong CPTPP và EVFTA của nhà thầu Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều thách thức do hạn chế về năng lực cạnh tranh như trình độ ngoại ngữ chuyên ngành và hiểu biết pháp luật quốc tế yếu, trình độ công nghệ chưa cao, kỹ năng quản lý kém, năng suất lao động vẫn ở mức thấp... Trên thực tế, các nhà thầu nước ta chủ yếu có quy mô nhỏ, năng lực cạnh tranh hạn chế, ít doanh nghiệp, nhà thầu có đủ năng lực để cạnh tranh được với các nhà thầu lớn của các quốc gia trong nội khối. Điều này đặt ra thách thức cho các nhà thầu Việt trong việc tận dụng hiệu quả khoảng thời gian quá độ để nhanh chóng lớn mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ngoài những thách thức nêu trên, mở cửa lĩnh vực mua sắm công trong CPTPP và EVFTA còn đặt ra những thách thức khác đối với nền kinh tế, cơ quan quản lý, nhà thầu… của nước ta như:
Tình trạng nhập siêu lớn từ các nước thành viên của 2 hiệp định khiến nền kinh tế phải đối mặt với việc mất cân đối cán cân thanh toán do phải sử dụng một lượng ngoại tệ để chi trả cho các nhà thầu quốc tế.
Hoạt động đấu thầu qua mạng tại Việt Nam còn chưa phát triển và có nhiều hạn chế như cơ sở hạ tầng công nghệ còn chưa hoàn thiện, khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp còn yếu...
Thách thức trong việc phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân, đối tượng liên quan về vấn đề mua sắm công trong hội nhập, đặc biệt là các vấn đề chuyên sâu trong công tác đấu thầu, pháp luật quốc tế về đấu thầu…
Một số giải pháp trong thực hiện cam kết hội nhập lĩnh vực mua sắm công
Tham gia các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA với các cam kết mở cửa đối với lĩnh vực mua sắm công đồng nghĩa với việc Việt Nam lần đầu bước vào sân chơi lớn, chấp nhận đương đầu với các khó khăn, thách thức mới để cạnh tranh với các nước lớn, qua đó từng bước học hỏi, hoàn thiện bản thân.
Trong thời gian tới, để sớm thích nghi với các cam kết, phát huy tối đa ảnh hưởng tích cực, giảm thiểu tác động tiêu cực từ quá trình mở cửa hội nhập và nâng cao năng lực phù hợp với lộ trình hội nhập lĩnh vực mua sắm công cần có các giải pháp đồng bộ. Cụ thể:
Cơ quan mua sắm công
Trong bối cảnh thực hiện mở cửa lĩnh vực mua sắm công, các cơ quan mua sắm của Việt Nam thuộc diện điều chỉnh của CPTPP và EVFTA là những đối tượng liên quan trực tiếp đến việc thực hiện lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho các gói thầu của đơn vị mình. Để có thể thực hiện đúng các nguyên tắc, quy trình, thủ tục đấu thầu theo cam kết, các cơ quan mua sắm công cần thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, về xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện: Để kiện toàn hệ thống pháp luật liên quan đến mua sắm công phù hợp với xu hướng mở cửa, hội nhập đồng thời để thuận lợi cho quá trình triển khai, các bộ và cơ quan ngang bộ, địa phương có liên quan cần sớm xây dựng thông tư hướng dẫn Nghị định số 95/2020/NĐ-CP và Nghị định số 09/2022/NĐ-CP của Chính phủ.
Hai là, về tổ chức, thực hiện: Cần chú trọng và đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phổ biến về mua sắm công trong hội nhập kinh tế quốc tế để có thể thay đổi kiến thức, tư duy về hội nhập mua sắm công; chủ động, quán triệt việc tuân thủ các nguyên tắc công khai, minh bạch trong mua sắm công và tranh thủ giai đoạn chuyển đổi; tăng cường áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi để trở thành hình thức lựa chọn nhà thầu chiếm tỷ trọng cao về cả số lượng gói thầu và giá trị gói thầu; Rà soát kỹ và xử phạt nghiêm các gói thầu, dự án lợi dụng chính sách để chỉ định nhà đầu tư, đồng thời đẩy mạnh thực hiện đấu thầu qua mạng và mua sắm tập trung.
Đặc biết chú trọng đào tạo cho các đối tượng trực tiếp phụ trách công tác mua sắm (nâng cao trình độ chuyên môn, am hiểu luật pháp và hàng hóa, dịch vụ mua sắm, tiếng Anh..) để có thể thẩm định, lựa chọn được các nhà thầu uy tín và hàng hóa, dịch vụ cung ứng tốt nhất.
Doanh nghiệp nhà thầu
Mở cửa lĩnh vực mua sắm công mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp, song cũng đặt các doanh nghiệp nhà thầu trong nước trước sức ép gia tăng năng lực nội tại để có thể cạnh tranh với các nhà thầu nước ngoài tại thị trường nội địa và vươn ra thị trường nội khối. Do đó, trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chú trọng một số giải pháp sau: Chủ động nâng cao hiểu biết chung, kiến thức về mua sắm công; Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp; Chủ động nghiên cứu và thâm nhập thị trường mua sắm công mới; Nắm vững quy định về xuất xứ hàng hóa để tận dụng ưu đãi về thuế của hai hiệp định; Liên kết và phát huy vai trò của Hiệp hội nhà thầu để cạnh với nhà thầu nước ngoài.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Các chính sách về đấu thầu tiếp tục được hoàn thiện đảm bảo chuẩn hóa, minh bạch, hài hòa với thông lệ quốc tế;
2. Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam và Đại sứ quán Anh tại Hà Nội (2016), Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Mua sắm công;
3. Sangeeta Khorana, Võ Trí Thành và Đặng Chiến Thắng (2011), Các lĩnh vực mới trong thương mại: Tự do hóa mua sắm chính phủ trong FTA dự kiến giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam, Dự án hỗ trợ thương mại đa biên EU - Vietnam MUTRAP III.
* NCS. Nghiêm Thị Thúy Hằng Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính, Bộ Tài chính
** ** Bài đăng Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 10/2022