Đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng trình độ khu vực và quốc tế
Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới cũng như thích ứng với tác động của Cách mạng Công nghiệp 4.0 đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Trong bối cảnh đó, việc đổi mới, đảm bảo chất lượng giáo dục nghề nghiệp theo trình độ khu vực và quốc tế ngày càng quan trọng.
Giáo dục nghề nghiệp dưới tác động của bối cảnh quốc tế và Cách mạnh công nghiệp 4.0
Trong những năm vừa qua, nhìn chung, chất lượng và hiệu quả đào tạo giáo dục nghề nghiệp có bước chuyển biến tích cực, từng bước gắn đào tạo với nhu cầu nguồn nhân lực của thị trường lao động. Đội ngũ nhà giáo từng bước nâng cao về chất lượng và chuẩn hóa. Nhiều chương trình đào tạo tiên tiến của Australia, Cộng hòa Liên bang Đức được triển khai đào tạo thí điểm.
Tuy nhiên, bối cảnh tham gia các FTA thế hệ mới đã và đang đặt ra yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực hiện nay. Việt Nam đã và đang tham gia sâu vào quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Tính đến tháng 4/2020, Việt Nam đã ký kết và tham gia 13 FTA và hiện đang đàm phán 03 hiệp định, trong đó, FTA với Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là những FTA thế hệ mới với những cam kết rất cao về lao động – việc làm, đặt ra những yêu cầu rất cao về chất lượng nguồn nhân lực.
Bản chất của tự do thương mại là dỡ bỏ các rào cản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho thương mại hàng hóa và dịch vụ cũng như đầu tư giữa các nước. Điều đó đặt ra 2 yêu cầu đối với Việt Nam về đào tạo nguồn nhân lực. Thứ nhất là để cung cấp nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao cho các doanh nghiệp Việt Nam để các doanh nghiệp có thể tận dụng các ưu đãi của FTA để vươn ra đầu tư, kinh doanh ở các nước. Thứ hai là để cung cấp đủ về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp nước ngoài đến từ những nước đối tác trong Hiệp định mà theo dự báo là lượng đầu tư từ những nước này sẽ tăng lên nhanh chóng.
Bên cạnh việc tham gia vào các FTA, việc gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) cùng với các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) giữa các nước ASEAN về tiêu chuẩn, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp cũng đòi hỏi Việt Nam phải nỗ lực rất cao trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực, đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp để tăng sức cạnh tranh của nguồn lao động.
Cùng với đó, cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng không ít khó khăn và thách thức cho kinh tế Việt Nam nói chung và GDNN nói riêng. Đối với GDNN, cuộc cách mạng này tạo ra nhiều cơ hội trong việc hợp tác, học tập, bồi dưỡng, trao đổi nâng cao trình độ; có thêm nhiều nguồn lực đầu tư nước ngoài. Người học có nhiều cơ hội hơn trong học tập, tiếp cận với các chương trình đào tạo tiên tiến, văn bằng, chứng chỉ được công nhận ở các nước trong khu vực và thế giới và dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm việc làm…
Bên cạnh những thuận lợi, Cách mạng Công nghiệp 4.0 đem lại không ít thách thức. Trước hết, thay đổi công nghệ sẽ tái cấu trúc sâu sắc bản chất của việc làm, về cả số lượng và chất lượng, trong các ngành sản xuất và dịch vụ. Các nghiên cứu chỉ ra rằng những thay đổi công nghệ sẽ ảnh hưởng tới hầu hết các ngành, nhất là các ngành công nghiệp sản xuất. Cách mạng Công nghiệp 4.0 sẽ làm một số công việc biến mất nhưng đồng thời sẽ tạo ra nhiều công việc mới. Các yêu cầu về kỹ năng của người lao động sẽ tăng cao.
Giải pháp bảo đảm chất lượng giáo dục nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu quốc tế
Để đảm bảo chất lượng đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, bảo đảm an sinh xã hội, tránh được nguy cơ tụt hậu về nguồn nhân lực, đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, hướng tới hội nhập khu vực và quốc tế, cần triển khai đồng bộ các giải pháp mang tính đột phá, phù hợp với xu hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp của các nước trên thế giới.
Theo đó, cần hướng tới tự chủ, trách nhiệm giải trình thông qua xây dựng cơ chế và bộ máy hiệu quả và phân bổ ngân sách hiệu quả. Theo khuyến nghị của Ngân hàng Thế giới (WB, 2019), cần rà soát nhiệm vụ của các bên trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp nhằm tăng cường trách nhiệm và trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả, giảm sự kiểm soát của cơ quan nhà nước là nhiệm vụ tiên quyết đối với bất kỳ quốc gia nào muốn cải cách hệ thống giáo dục nghề nghiệp, trong đó có Việt Nam.
Một trong những giải pháp để tăng tính tự chủ cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp là áp dụng chính sách phân bổ ngân sách hiệu quả và tiết kiệm. Việc lâp và phân bổ ngân sách cho các trường cần phải căn cứ vào chi phí hoạt động của kỳ phân bổ trước; thực hiện phân bổ vốn cho các trường dựa vào đầu ra, theo các tiêu chí rõ ràng. Bên cạnh đó, cần có các chương trình hỗ trợ cho học sinh, sinh viên khó khăn thông qua hình thức vay ưu đãi hoặc học bổng…
Công tác quản lý giáo dục nghề nghiệp cũng cần được đổi mới. Theo đó, tiếp tục xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp và các luật có liên quan. Ban hành đầy đủ các chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh danh mục ngành, nghề đào tạo mới.
Cùng với đó, xây dựng và ban hành các chuẩn kiến thức, kỹ năng (chuẩn đầu ra) cho các ngành, nghề tương ứng với từng cấp trình độ đào tạo với sự tham gia của doanh nghiệp, đảm bảo phù hợp với khung trình độ và tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia. Tiếp tục xây dựng danh mục thiết bị dạy nghề của từng ngành, nghề và trình độ đào tạo. Ban hành các quy định về hệ thống đảm bảo chất lượng.
Phát triển mở rộng hệ thống đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề theo hướng xã hội hoá, đa dạng, linh hoạt hình thức, cách thức để có thể đánh giá rộng rãi các nghề đảm bảo tương thích với các khung tham chiếu của khu vực. Phát triển kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp và đánh giá, công nhận trường chất lượng cao, chương trình đào tạo chất lượng cao. Đẩy nhanh việc thành lập các trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục nghề nghiệp độc lập. Tổ chức xây dựng và vận hành hệ thống quản lý chất lượng theo chuẩn các nước phát triển. Áp dụng công nghệ thông tin để xây dựng và vận hành hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Công tác chuẩn hóa và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cần được chú trọng. Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo giáo dục nghề nghiệp cần thực hiện đào tạo và bồi dưỡng liên tục về trình độ chuyên môn, kỹ năng thực hành nghề, khả năng giảng dạy các chương trình nước ngoài chuyển giao, trình độ tin học, ngoại ngữ.
Xây dựng cơ chế thu hút đội ngũ kỹ thuật viên có chuyên môn tốt và chuyên gia nước ngoài, kỹ sư, cử nhân, nghệ nhân, người có kỹ năng nghề cao đã và đang làm việc tại doanh nghiệp tham gia giảng dạy. Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo ở các nước phát triển, áp dụng chuẩn của các nước phát triển để hình thành đội ngũ giáo viên hạt nhân đạt chuẩn quốc tế có đủ năng lực để đào tạo chương trình chuyển giao từ nước ngoài. Tăng cường đào tạo tiếng Anh cho các nhà giáo dạy các chương trình ASEAN, quốc tế...
Ngoài ra, cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Hoạt động hợp tác quốc tế trong thời gian tới không chỉ dừng lại ở các hoạt động như “nhập khẩu chương trình đào tạo” như hiện nay mà cần tiếp tục đàm phán, hợp tác với các nhóm nước trong ASEAN và các nước phát triển để tiến tới công nhận văn bằng, chứng chỉ và kỹ năng nghề giữa các nước.
Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, khuyến khích các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài; hợp tác nghiên cứu khoa học; thu hút các nhà đầu tư nước ngoài phát triển cơ sở giáo dục nghề nghiệp, hợp tác đào tạo, mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.