Dấu ấn tài chính Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Song hành với sự phát triển của đất nước, trong 75 năm qua (28/8/1945-28/8/2020), ngành Tài chính luôn tích cực, chủ động thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế và mở rộng hơp tác quốc tế về tài chính, góp phần tăng cường vị thế quốc gia và hỗ trợ cho các chính sách của ngành Tài chính. Đặc biệt, với việc đăng cai chủ trì các tiến trình hợp tác tài chính đa phương như: Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC năm 2017, Tiến trình Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN năm 2020 đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực, qua đó thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác tài chính đa phương.
Quan điểm và thành tựu của Việt Nam trong hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế (HNQT) trở thành xu thế kể từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 (năm 1945) cho đến nay. Theo xu thế đó, sau khi giành được độc lập, thống nhất đất nước, Việt Nam dần mở rộng quan hệ HNQT, nhất là từ sau giai đoạn đổi mới từ năm 1986 đến nay. Với quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986) xác định “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc”; định hình chính sách đối ngoại thêm bạn, bớt thù; phá thế bị bao vây, cấm vận; mở rộng quan hệ quốc tế.
Tiếp nối chủ trương, chính sách đối ngoại đã đề ra từ Đại hội lần thứ VI, Đại hội lần thứ VII, Đại hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả”.
Với chiến lược đó, trong giai đoạn từ 1995-1998, Việt Nam đã tăng cường, đẩy mạnh và mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, cụ thể: Gia nhập ASEAN năm 1995; Ký Hiệp định hợp tác khung Việt Nam - Ủy ban châu Âu (EU) và gia nhập Diễn đàn Hợp tác Á - Âu năm 1996; tham gia Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998; nộp đơn xin gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 1995.
Quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế (KTQT) được thể hiện cụ thể, nhất quán trong Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX (năm 2001) về hội nhập KTQT, đó là: “Chủ động hội nhập KTQT và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế (HTQT), bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”. Theo đó, HNQT của Việt Nam bắt đầu đi vào chiều sâu với việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ năm 2001; đẩy nhanh đàm phán gia nhập WTO; thúc đẩy khu vực mậu dịch tự do ASEAN; ký kết Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN - Trung Quốc năm 2004.
Đến Đại hội lần thứ X và Đại hội lần thứ XII của Đảng có những thay đổi về chất trong HNQT với việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO (năm 2007). Những năm sau đó, Việt Nam ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu vực… Ngoài ra, Việt Nam cũng tích cực tham gia sâu vào Diễn đàn APEC, đã đăng cai năm APEC 2006 và đã tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh các nhà lãnh đạo APEC năm 2017, chủ trì Hội nghị ASEAN năm 2020 và đóng vai trò định hướng, tác động tới tiến trình hội nhập trong các diễn đàn đa phương và khu vực quan trọng này. Trong giai đoạn này, Việt Nam cũng được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2020-2021) với số phiếu gần như tuyệt đối, đăng cai tổ chức Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới IPU lần thứ 132 (năm 2015)...
Việt Nam cũng được bầu vào Hội đồng Thống đốc Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO và lần đầu tiên được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu rất cao, kết quả này thể hiện uy tín quốc tế của Việt Nam và niềm tin cộng đồng quốc tế dành cho Việt Nam.
Trải qua hơn 30 năm HNQT đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và thương mại với hơn 200 quốc gia thuộc tất cả các châu lục; ký kết 21 FTA, thỏa thuận thương mại song phương và đa phương (gồm cả WTO); ký kết trên 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 80 Hiệp định chống đánh thuế hai lần… đồng thời, phát triển hợp tác đa phương và song phương với nhiều tổ chức quốc tế.
Dấu ấn tài chính trong đổi mới và hội nhập
Trong giai đoạn 1945-1985, Việt Nam tập trung vào công cuộc kháng chiến kiến quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam. Ngoài nhiệm vụ quản lý thu chi tài chính, vận động toàn dân thực hiện nghĩa vụ đóng thuế, ngành Tài chính còn đảm nhận nhiệm vụ vận động bạn bè quốc tế chi viện ở mức cao nhất sức người, sức của cho công cuộc xây dựng và thống nhất đất nước.
Trong tiến trình HNQT của Việt Nam, ngành Tài chính phụ trách quản lý điều hành các lĩnh vực như: tài khóa, thuế, thị trường tài chính, vay nợ viện trợ, dự trữ, kho bạc… đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, an ninh tài chính, môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy năng lực cạnh tranh của đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập sâu của nền kinh tế.
Bên cạnh đó, ngành Tài chính cũng đóng vai trò chủ chốt trong xây dựng và thực hiện các cam kết hội nhập KTQT của Việt Nam, cụ thể là về thuế xuất nhập khẩu và về thị trường tài chính). Hội nhập KTQT trong lĩnh vực tài chính đã góp phần quan trọng vào thành tựu của đất nước trong phát triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, huy động và tận dụng nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững an ninh chính trị, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin vào công cuộc đổi mới, nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.
Trong quá trình hội nhập mở cửa và mở đường phá thế cấm vận kinh tế của Hoa Kỳ và bình thường hóa quan hệ với các tổ chức và nhà tài trợ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, ngành Tài chính đã thực sự đi đầu trong cải cách, đổi mới và hội nhập, khơi thông các nguồn vốn trực tiếp đầu tư nước ngoài và vốn viện trợ chính thức để phục vụ cho đầu tư, sản xuất và cải cách đất nước theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Trong quá trình đàm phán cam kết và triển khai thực hiện các cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài chính giai đoạn từ 1995-2020 cho thấy, Việt Nam đã có nhiều cam kết hội nhập KTQT sâu rộng, thể hiện rõ nét trong lĩnh vực tài chính (thuế quan xuất nhập khẩu, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, mua sắm chính phủ, cam kết về doanh nghiệp nhà nước, trợ cấp, bảo hộ đầu tư nước ngoài..).
Những cam kết hội nhập trong lĩnh vực tài chính nổi bật bao gồm:
(i) Cam kết về thuế quan, gồm thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu, trong đó cam kết về thuế nhập khẩu thể hiện rõ qua khuôn khổ WTO và từng FTA;
(ii) Cam kết về dịch vụ tài chính, gồm chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác như thuế, kế toán kiểm toán và ghi sổ kế toán;
(iii) Các cam kết khác như thuế nội địa, chính sách quản lý giá, phí hải quan và trị giá hải quan, doanh nghiệp nhà nước và các biện pháp trợ cấp khác.
Đóng góp vào tiến trình hội nhập KTQT của đất nước, Bộ Tài chính cũng là Bộ chủ chốt tham gia Đoàn đàm phán Chính phủ, tham gia xây dựng phương án cam kết, đàm phán để Việt Nam trở thành thành viên của WTO và tham gia nhiều thỏa thuận FTA khu vực.
Việt Nam còn tích cực tham gia các diễn đàn hợp tác tài chính khu vực và thế giới. Các hoạt động hợp tác tài chính của Việt Nam đóng vai trò quan trọng và đạt được các kết quả thiết thực, từng bước nâng cao vị thế của Việt Nam trong hợp tác khu vực. Thông qua việc chủ trì các Hội nghị ASEAN, APEC… cũng thể hiện rõ nét vai trò và sự chủ động của ngành Tài chính trong thúc đẩy tiến trình HTQT của đất nước.
Bên cạnh đó, thông qua các chương trình hợp tác, dự án với nhà tài trợ nước ngoài đã thúc đẩy hội nhập và HTQT trong lĩnh vực tài chính nói riêng và đóng góp vào mục tiêu chung về hội nhập nền kinh tế đất nước, qua đó khơi thông các dòng vốn trong và ngoài nước phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao vị thế của ngành Tài chính, cũng như của Việt Nam trên các diễn đàn tài chính quốc tế.
Về mở cửa thị trường đối với hàng hóa nhập khẩu, mức độ cam kết thuế nhập khẩu trong các FTA được xây dựng và thực hiện theo lộ trình cam kết với các đối tác FTA. Lộ trình cam kết thuế được thực hiện từng bước và có lộ trình đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh có thời gian để thích ứng và chuẩn bị. Trên cơ sở các cam kết tại các FTA, ngành Tài chính đã xây dựng nhiều văn bản quy phạm pháp luật để thực thi cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu trong các FTA, cụ thể là 61 văn bản, trong đó gồm: 12 quyết định, 25 thông tư và 24 nghị định về thực hiện các FTA.
Về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, việc nội luật hóa thực hiện các cam kết cụ thể về dịch vụ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tiếp thu các thông lệ quốc tế đã thiết lập môi trường thông thoáng, tăng tính minh bạch của thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tham gia thị trường tự do. Cụ thể, kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam được xây dựng và đi vào hoạt động (năm 2000) đến nay, cơ chế, chính sách phát triển về lĩnh vực chứng khoán luôn được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, phù hợp thực tiễn từng giai đoạn, đồng thời từng bước tiếp cận với thông lệ quốc tế, giúp thị trường chứng khoán Việt Nam ngày càng phát triển ổn định, vững chắc và trở thành kênh huy động vốn quan trọng đối với nền kinh tế. Thực thi cam kết về dịch vụ chứng khoán trong WTO và các FTA giúp tạo ra một thị trường chứng khoán với các dịch vụ tài chính phát triển, minh bạch, tăng hiệu quả hoạt động, mức độ cạnh tranh và tính thanh khoản cho thị trường; quy mô của thị trường chứng khoán cũng tăng lên đáng kể.
Đối với dich vụ bảo hiểm, việc thực thi cam kết hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ bảo hiểm đã góp phần thúc đẩy cơ chế chính sách minh bạch, công bằng, gắn liền với cải cách thủ tục hành chính; nâng cao dịch vụ công, tạo điều kiện cho doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng phạm vi địa bàn, đối tượng dịch vụ khách hàng và đảm bảo an toàn tài chính và tăng trưởng hiệu quả.
Quá trình hội nhập đã tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy doanh nghiệp bảo hiểm trong nước tăng vốn, mở rộng hoạt động, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, cung cấp nhiều sản phẩm bảo hiểm với chất lượng dịch vụ tốt.
Quá trình hội nhập KTQT và tham gia các FTA thế hệ mới cũng đặt ra yêu cầu xây dựng các biện pháp quản lý thận trọng, nhất là trong lĩnh vực quản lý và phát triển các dịch vụ tài chính như dịch vụ chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm để bảo đảm phát triển bền vững thị trường tài chính.
Đối với dịch vụ kế toán và kiểm toán viên, việc mở cửa thị trường dịch vụ theo cam kết WTO đã góp phần gia tăng số lượng doanh nghiệp và kế toán viên, kiểm toán viên nước ngoài đăng ký hành nghề tại Việt Nam, hỗ trợ cho thu hút đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam.
Bên cạnh đó, việc cải cách hành chính trong lĩnh vực thuế và hải quan đã đóng góp tích vực vào việc tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, tạo môi trường kinh doanh và đầu tư thông thoáng. Trong số các nước đang phát triển, Việt Nam đã áp dụng các chuẩn mực quốc tế và quản lý hải quan theo kịp với các nước phát triển, đó là tăng cường cải cách hiện đại hóa ngành Hải quan và thực hiện Chiến lược cải cách hiện đại hóa đến 2020 và tầm nhìn đến 2030.
Một số kết quả hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực tài chính
Kết quả hội nhập KTQT trong lĩnh vực tài chính được thể hiện thông qua các chỉ tiêu như tăng trưởng kinh tế, đầu tư, ổn định tài chính tiền tệ, thương mại xuất nhập khẩu, ngân sách và phát triển kinh tế ngành, cụ thể:
Về tăng trưởng kinh tế: Giai đoạn Việt Nam hội nhập KTQT mạnh mẽ, với điểm nhấn là trở thành thành viên của WTO năm 2007. Tăng trưởng GDP sau khi Việt Nam gia nhập WTO đạt trung bình 6-7%/năm. Mặc dù thấp hơn giai đoạn 2000-2005 (7,5%) và giai đoạn khủng hoảng tài chính Đông Á 1996-2000 (7,0%), nhưng vẫn là mức tăng trưởng tương đối cao so với nhiều nước trên thế giới trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Về đầu tư: Các cam kết hội nhập KTQT, bao gồm cam kết trong lĩnh vực tài chính, đã góp phần cải thiện môi trường đầu tư theo hướng minh bạch, mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ. Hội nhập KTQT nhìn chung đã có tác động tích cực đến sự phát triển về số lượng doanh nghiệp và vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Trong giai đoạn 2001 - 2020, nhờ tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách trong quá trình hội nhập KTQT (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư), nguồn vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước ngày càng tăng.
Về thương mại: Kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng được tăng lên. Xuất khẩu hàng hóa/GDP năm 1988 của Việt Nam chỉ đạt 18,9% nhưng đến năm 2020 đã đạt trên 80%. Nếu tính cả xuất và nhập khẩu/GDP, đến năm 2018 - 2020 xuất khẩu hàng hóa/GDP của nước ta đạt trên 190%, nằm trong tốp 5 nước có độ mở của nền kinh tế ở mức cao nhất thế giới. Sự chuyển dịch mạnh mẽ từ xuất khẩu hàng thô hoặc mới sơ chế giảm, tăng tỷ trọng hàng chế biến hoặc đã tinh chế. Đến nay, hàng hóa của Việt Nam đã có mặt trên thị trường trên 200 nước và vùng lãnh thổ, hầu hết các châu lục, chủ yếu là châu Á. Về hoạt động nhập khẩu hàng hóa, cũng gia tăng mạnh mẽ. Hàng hóa nhập khẩu chủ yếu là máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, chiếm đến trên 80%/kim ngạch nhập khẩu; hàng tiêu dùng khoảng 10%/kim ngạch nhập khẩu, còn lại các hàng hóa khác. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu nhiều hơn khu vực kinh tế trong nước.
Về ngân sách nhà nước (NSNN): Việc thực hiện các cam kết hội nhập KTQT trong lĩnh vực tài chính đã tác động thu - chi NSNN. Thu NSNN, tính theo tỷ lệ % so với GDP giảm do giảm thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, cạnh tranh thu hút đầu tư gây sức ép giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi đó, chi NSNN tăng mạnh nhằm đầu tư nâng cao năng lực tận dụng cơ hội từ hội nhập, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của hội nhập đối với an sinh xã hội.
Nhìn chung, những tác động tới thu NSNN về cơ bản nằm trong phạm vi đã dự kiến. Mặc dù thực hiện cắt giảm hàng rào thuế quan song nhờ các biện pháp cải cách mạnh mẽ về hệ thống thu ngân sách, tổng thu NSNN trong những năm qua tiếp tục được đảm bảo, qua đó góp phần đáp ứng các nhu cầu chi ngày càng gia tăng của NSNN. Sự giảm thu về thuế xuất nhập khẩu do cắt giảm hàng rào thuế quan đã được bù đắp bởi các nguồn thu khác, trong đó đáng kể nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng và thuế tài nguyên.
Về phát triển kinh tế ngành: So với giai đoạn 2001-2005, giai đoạn từ 2006 đến nay, trong các ngành kinh tế, dịch vụ là ngành có sự tăng trưởng nhanh nhất. Trong những năm đầu gia nhập WTO, các ngành có đầu tư tăng trưởng mạnh nhất trong nền kinh tế là các ngành kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn; các ngành mở cửa cho vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) như tài chính và tín dụng; và vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc. Tăng trưởng của các ngành này đều chủ yếu do đóng góp của khu vực FDI và khu vực kinh tế ngoài Nhà nước.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời gian qua có đóng góp không nhỏ của ngành Tài chính. Trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu đã phát triển mạnh nhờ các cam kết mở cửa thị trường, tạo thuận lợi thương mại (cắt giảm thuế nhập khẩu), đồng thời giúp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng có lợi hơn.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về tăng cường hội nhập KTQT, hội nhập và HTQT trong thời gian qua, lĩnh vực tài chính đã đạt được những kết quả quan trọng. Việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, đặc biệt trong các lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, ngân hàng đã giúp khơi thông các dòng vốn đầu tư gián tiếp, thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính trong nước.
Công tác thông tin tuyên truyền về hội nhập KTQT đã được chú trọng triển khai tích cực, nhất là các cam kết, lộ trình cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam, qua đó nâng cao nhận thức và hiểu biết của cộng đồng doanh nghiệp, tạo sự đồng thuận trong xã hội, qua đó góp phần triển khai có hiệu quả các chủ trương, chính sách về hội nhập KTQT.
Hợp tác tài chính trong các khuôn khổ đa phương và song phương được ngành Tài chính chú trọng tăng cường. Đặc biệt, với việc đăng cai chủ trì các tiến trình hợp tác tài chính đa phương như: Tiến trình Bộ trưởng Tài chính APEC năm 2017, Tiến trình Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN năm 2020 đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực, qua đó thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác tài chính đa phương. Các hoạt động HTQT trong các lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc, chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực tài chính khác cũng góp phần tích cực, nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chính sách tài chính quốc gia.
Trong giai đoạn 2021-2030, ngành Tài chính tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm, khơi thông các nguồn lực tài chính, dẫn dắt các kênh đầu tư hướng tới các mục tiêu ưu tiên nhằm phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế trong điều kiện nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu với thế giới và khu vực.
Theo đó, định hướng của hội nhập và hợp tác tài chính trong giai đoạn tới cần hướng đến mục tiêu; Tiếp tục thực hiện mở cửa thị trường tài chính một cách hiệu quả, phù hợp với cam kết quốc tế; Chủ động tham gia thị trường tài chính quốc tế, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tài chính nhằm tăng cường thu hút và khai thác tối đa nguồn vốn nước ngoài phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước trong từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, hội nhập và hợp tác tài chính cũng cần bám sát các mục tiêu phát triển cùa ngành Tài chính để hỗ trợ các đơn vị nâng cao năng lực, cải thiện công nghệ nhằm thực hiện hiệu quả các mục tiêu.