Thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế toàn diện của Việt Nam trong bối cảnh mới
Hội nhập quốc tế là chủ trương lớn đã được cụ thể hóa trong từng giai đoạn phát triển của Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức. Để bảo đảm hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những yêu cầu quan trọng đặt ra là phải chủ động xây dựng chiến lược bảo vệ sản xuất trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế.
Khẳng định và nâng cao vị thế của Việt Nam
Tình hình quốc tế đã và đang có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, để bảo vệ quyền lợi, nhiều nước hướng đến các biện pháp bảo hộ mậu dịch, thậm chí tham gia “chiến tranh thương mại”. Trong bối cảnh đó, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia tiếp tục kiên định với hội nhập kinh tế quốc tế.
Một trong những chủ trương quan trọng đã được đưa ra tại Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”. Chủ trương này đã giúp nước ta tự tin bước vào giai đoạn mới của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động xây dựng các quy tắc mới trong thương mại quốc tế thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.
Kết quả đầu tiên của tiến trình thực hiện các chủ trương về hội nhập kinh tế quốc tế chính là Hiệp định Ðối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được Quốc hội Việt Nam thông qua và có hiệu lực vào tháng 1/2019.
Ngay sau khi được Quốc hội thông qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 121/QĐ-TTg ngày 24/01/2019 phê duyệt Kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP. Quyết định đã xác định rõ những công việc cụ thể nhằm triển khai việc thực thi Hiệp định CPTPP, trong đó bao gồm các nội dung công việc, cơ quan chủ trì, phối hợp, sản phẩm và thời gian hoàn thành công việc.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan cấp trung ương và địa phương đã xây dựng kế hoạch thực thi Hiệp định CPTPP của riêng mình (tính đến thời điểm ngày 9/7/2019 đã có 23 bộ, ngành, cơ quan trung ương và 55 cơ quan cấp địa phương ban hành kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP của mình).
Ngày 30/6/2019, Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) đã ký kết Hiệp định thương mại tự do (EVFTA). Như vậy, không chỉ 1 mà đến 2 FTA “thế hệ mới” được Việt Nam tham gia, góp phần thiết lập quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới.
Ðặc biệt, Việt Nam là nước thứ 2 trong ASEAN và là nước đang phát triển đầu tiên trong khu vực ký kết FTA với EU (EVFTA). Ðây là kết quả của chặng đường dài, thể hiện các bước tiến lớn để đưa Việt Nam từ một nước đi sau, lần đầu tiên vươn lên thuộc nhóm nước đi đầu khu vực trong tiến trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
EVFTA là được dự báo là có nhiều đóng góp tích cực cho tăng trưởng xuất khẩu cũng như quá trình đa dạng hóa thị trường và mặt hàng xuất khẩu cho Việt Nam. Ngay khi Hiệp định có hiệu lực, 85,6% số mặt hàng, (tương đương khoảng 70,3% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU) sẽ được hưởng thuế 0%. Sau 7 năm, 99,2% số mặt hàng sẽ được hưởng thuế 0%, tương đương 99,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (các mặt hàng còn lại theo hạn ngạch thuế quan với thuế nhập khẩu trong hạn ngạch là 0%).
Tuy nhiên, với những FTA thế hệ mới, phạm vi không chỉ dừng ở các cam kết mở cửa thị trường hàng hóa. Hiệp định EVFTA điều chỉnh rất nhiều vấn đề khác như mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm của các cơ quan Chính phủ; thương mại điện tử; quyền sở hữu trí tuệ; doanh nghiệp (DN) nhà nước và phát triển bền vững. Các quy định dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế trong nhiều lĩnh vực về kinh doanh, thương mại, đầu tư, đấu thầu, sở hữu trí tuệ...
Theo tính toán của các chuyên gia, nếu EVFTA được thực hiện ngay, có thể sẽ góp phần làm tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam tăng thêm ở mức bình quân từ 2,18 đến 3,25% cho giai đoạn 2019-2023; 4,57 đến 5,30% cho giai đoạn 2024 - 2028 và từ 7,07 đến 7,72% cho giai đoạn 2029 - 2033. Song song với tăng trưởng kinh tế, EVFTA giúp tăng thêm việc làm cho khoảng 146 nghìn lao động mỗi năm. Ðây là kết quả cao nhất so với các FTA đã được Việt Nam ký kết và thực hiện cho đến nay.
Hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và sự nghiệp của toàn dân, được thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa phương theo tinh thần của Nghị quyết số 22-NQ/TW và Nghị quyết số 06-NQ/TW. Thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua đã ghi nhận sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương thông qua cơ chế điều phối liên ngành.
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng và các bộ, ngành, địa phương đã xây dựng các chương trình, hành động phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc thù của từng bộ, ngành, địa phương, nhất là việc cụ thể hóa các cam kết FTA đến từng khối ngành hàng, DN và được triển khai rộng rãi với nhiều hình thức phong phú, hiệu quả hơn nhằm đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường thực thi có hiệu quả các FTA mà Việt Nam đã ký kết, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.
Thách thức để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
Song hành cùng với những thuận lợi từ các hiệp định mang lại, Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, đó là:
Thứ nhất, việc cải cách thể chế kinh tế vẫn chưa đáp ứng và theo kịp các yêu cầu của việc thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Việc đẩy mạnh quá trình đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế chưa tạo sức ép đổi mới trong nước, nhất là về thể chế kinh tế, cải cách hành chính. Tuy đã có nhiều chính sách, pháp luật để hội nhập và thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO và các FTA, song vẫn thiếu các chính sách cụ thể và hiệu quả để thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ lớn về phát huy nội lực, phát triển DN trong nước, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực, khoa học công nghệ...
Thứ hai, quá trình mở cửa, dù theo lộ trình, với các đối tác thương mại lớn có thể khiến một số ngành sản xuất trong nước không thích ứng kịp với diễn biến cạnh tranh phức tạp, thậm chí không lành mạnh (như bán phá giá, nhận trợ cấp) của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với tần suất cao. Các vụ kiện không chỉ diễn ra với hàng hóa có thế mạnh xuất khẩu mà với ngay cả các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp. Việc này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới các ngành sản xuất, xuất khẩu và gián tiếp đặt ra các gánh nặng về kinh tế - xã hội.
Thứ ba, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, DN và các sản phẩm chủ lực còn thấp và chịu sức ép cạnh tranh với các DN và sản phẩm nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Tác động lan tỏa về công nghệ, kỹ năng của khu vực FDI ở Việt Nam còn yếu. Một số lĩnh vực sản xuất được bảo hộ quá lâu, hạn chế cạnh tranh và cả sự tham gia trong mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Các DN tư nhân vừa và nhỏ phát triển chưa mạnh, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, khả năng tiếp nhận hiệu ứng lan tỏa tích cực từ FDI còn hạn chế.
Một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
Để hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đạt được hiệu quả thực chất và lợi ích hội nhập cân bằng hơn, cần thực hiện tốt hơn một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói chung. Tăng cường nâng cao hiểu biết và sự đồng thuận của cả xã hội của DN, doanh nhân đối với các thoả thuận quốc tế, đặc biệt là cơ hội, thách thức và những yêu cầu phải đáp ứng khi tham gia và thực hiện các FTA thế hệ mới bằng các hình thức, nội dung tuyên truyền phù hợp và hiệu quả cho từng ngành hàng, hiệp hội, DN và cộng đồng...
Hai là, đổi mới cách thực hiện và nâng cao hiệu quả các cơ chế phối hợp hiện có giữa các ban chỉ đạo liên ngành với nhau và giữa các bộ, ngành, địa phương để phù hợp với những chuyển biến nhanh của tình hình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát huy hiệu lực và hiệu quả của cơ chế liên ngành, nâng cao hiệu quả phối hợp từ trung ương đến địa phương để hỗ trợ DN trong quá trình triển khai các cam kết quốc tế, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc của DN và thực thi cam kết FTA, giúp DN tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho DN ngày càng phát triển.
Ba là, tập trung triển khai hiệu quả các chủ trương, chính sách, chương trình hành động về hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng việc nâng cao toàn diện năng lực thực thi các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Gắn việc thực thi đầy đủ các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế với quá trình rà soát, bổ sung và hoàn thiện pháp luật và thể chế trong nước, hài hòa pháp luật của Việt Nam với các cam kết quốc tế; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế...
Bốn là, các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội và DN cần chủ động nâng cao hiểu biết và vận dụng hiệu quả các luật lệ, quy định về kinh tế, thương mại cũng như tập quán của các thị trường nước ngoài, nhất là các thị trường đã có FTA với Việt Nam, bảo đảm có thể bảo vệ được lợi ích của sản phẩm, DN, quốc gia trong trường hợp xảy ra tranh chấp thương mại. Đây là bài học quan trọng khi các FTA mới mà Việt Nam đang và sẽ thực thi đòi hỏi phải cải cách sâu sắc hệ thống pháp luật trong nước, không chỉ về kinh tế, thương mại mà cả các vấn đề thương mại phi truyền thống như quyền của người lao động, môi trường, DN nhà nước, mua sắm chính phủ...
Năm là, tập trung phát huy nội lực, nỗ lực vượt qua những khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm tranh thủ hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển nền kinh tế. Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế.
Sáu là, không ngừng đổi mới phương pháp để nâng cao hiệu quả và chất lượng các hoạt động thông tin, tuyên truyền; phổ biến, cập nhật tình hình hội nhập kinh tế quốc tế và hướng dẫn cụ thể để DN và người dân có nhận thức đầy đủ hơn, từ đó có thể chủ động ứng phó và vượt qua thách thức, tận dụng tối đa các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế; tạo sự đồng thuận cao trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII (2016), Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 5/11/2016 về thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới;
2. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính (2016), Quan điểm, chủ trương của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế qua các kỳ Đại hội;
3. Trần Tuấn Anh, EVFTA nâng tầm hội nhập của Việt Nam, báo Nhân dân điện tử, ngày 01/07/2019;
4. Hoàng Xuân Hòa, Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sau 5 năm nhìn lại,
Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 12/07/2019;
5. Lê Quang Thuận (2019), “Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và tác động đối với kinh tế Việt Nam”.