Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam: Hành động đúng, hiệu quả cao
(Tài chính) Việc Việt Nam chủ động tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) làm cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Mỹ. Điều này khiến cho thị trường Việt Nam “khác biệt” so với các quốc gia khác tại khu vực ASEAN không phải là thành viên TPP, theo Phòng Thương mại Mỹ tại Singapore.
FDI của Mỹ tập trung vào lĩnh vực vốn, ngành nghề kỹ năng chuyên sâu. Các nhà đầu tư Mỹ có xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn là chủ yếu, tiếp đến là hình thức liên doanh và cuối cùng là hình thức đầu tư Hợp đồng hợp tác kinh doanh và không có bất kỳ dự án nào theo hình thức BOT. Đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) có thể sẽ mở đường cho sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ Mỹ vào Việt Nam.
Hình thức PPP thu hút sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư từ quốc gia có trình độ phát triển hàng đầu thế giới. Sự hấp dẫn của hình thức PPP đối với các nhà đầu tư Mỹ một phần do nước này đang quan tâm đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng của Việt Nam. Đa số các dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam tập trung ở 2 thành phố lớn (Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) - những nơi có kết cấu hạ tầng và dịch vụ tốt nhất. Bên cạnh đó, các dự án cũng tập trung nhiều ở các khu công nghiệp Bình Dương, Đồng Nai, Hải Dương. TP. Hồ Chí Minh chiếm tới 40% FDI của Mỹ vào Việt Nam trong các ngành phi dầu mỏ.
Điều đáng chú ý, nguồn vốn đầu tư từ Mỹ vào Việt Nam có đặc điểm khác biệt so với nhà đầu tư từ các quốc gia khác. Bên cạnh những lĩnh vực đầu tư đang được quan tâm hiện nay như bất động sản, phân phối hàng hóa, logistics, giáo dục... nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đến các dự án về kết cấu hạ tầng. Có thể kể đến là Tập đoàn GE đã thực hiện thành công vai trò nhà thầu cung cấp thiết bị và hỗ trợ thu xếp vốn cho khu điện gió đầu tiên của Đồng bằng sông Cửu Long tại tỉnh Bạc Liêu, do Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Du lịch Công Lý làm chủ đầu tư.
GE đã cung cấp 10 tuốc bin gió với tổng công suất 16 MW, đồng thời hỗ trợ vận hành và bảo trì thiết bị cho giai đoạn I. Tập đoàn đã tiếp tục đầu tư vào các dự án điện gió khác tại các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh. Đó là các dự án nằm trong Chương trình Phát triển điện gió Đồng bằng sông Cửu Long đã được Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu Mỹ (US EXIM) ký cam kết thỏa thuận hợp tác tài trợ, với hạn mức 1 tỷ USD.
Không chỉ đơn thuần là hoạt động đầu tư sinh lời, việc cung ứng thiết bị, cung ứng vốn cho dự án điện gió là hoạt động cụ thể đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á cho chính sách phát triển nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và chống biến đổi khí hậu được Mỹ đề xuất.
Bên cạnh hoạt động đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp của Mỹ vào Việt Nam cũng có xu hướng tăng gần đây như việc: Quỹ đầu tư hàng đầu thế giới Warburg Pincus (Mỹ) đã quyết định chi ra 200 triệu USD (năm 2013) để đầu tư vào lĩnh vực bán lẻ của Tập đoàn Vingroup. Đây là tín hiệu cho thấy Việt Nam đang hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế.
Khoản đầu tư của Warburg Pincus sẽ giúp quỹ đầu tư Mỹ theo sát đối thủ KKR (Kohlberg Kravis Roberts - một quỹ đầu tư khác của Mỹ), vốn đã tăng gấp đôi cổ phần sở hữu trong một nhà máy nước chấm của Việt Nam đầu năm 2013. Quỹ đầu tư KKR đã đầu tư thêm 200 triệu USD vào tập đoàn Masan Consumer, nâng tổng số tiền đầu tư vào tập đoàn Việt Nam lên 395 triệu USD (2013)….
Tuy nhiên, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam thời gian qua đã đạt được những hiệu quả nhất định, đóng góp tích cực đối với kinh tế - xã hội của Việt Nam như: Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước, bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội, góp phần quan trọng vào xuất khẩu, đóng góp vào nguồn thu ngân sách hàng năm; Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như khai thác chế biến dầu khí, công nghệ thông tin, điện tử, năng lượng…; Góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế, ký kết hiệp định thương mại – đầu tư với các nước.
Triển vọng đầu tư năm 2015
Giới đầu tư Mỹ nhận định, Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn hàng đầu tại khu vực ASEAN do có vị trí địa lý thuận lợi, chính trị ổn định, môi trường kinh tế vĩ mô được cải thiện, chi phí nhân công rẻ và triển vọng tăng trưởng tích cực. Các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế Việt Nam như dầu khí (Exxon Mobil, Chevron…), hàng không (Boeing, ADC - HAS Airport), công nghệ thông tin (Microsoft, Intel, Apple, HP) và điện (General Electric, General Atlantis, AES…) hiện đang được các nhà đầu tư Mỹ rất quan tâm.
Theo Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN, sự hấp dẫn trong môi trường kinh doanh, đầu tư của Việt Nam đã thể hiện rõ bằng sự quan tâm của các doanh nghiệp Mỹ. Nếu như năm 2013, chỉ có 22 doanh nghiệp Mỹ đến tìm hiểu và quan tâm đến môi trường kinh doanh tại Việt Nam thì năm 2014, con số này đã tăng lên 33. Sự quan tâm này sẽ càng lớn hơn khi Việt Nam tham gia vào Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đây là điều kiện thuận lợi để các công ty Mỹ gia tăng đầu tư trong đó có việc không ngừng mở rộng quy mô, tăng năng lực sản xuất, tìm kiếm lợi nhuận.
Theo Amcham Hồng Kông, việc Việt Nam chủ động tham gia Hiệp định TPP làm cho Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có Mỹ, khiến cho thị trường Việt Nam “khác biệt” so với các quốc gia khác tại khu vực ASEAN không phải là thành viên TPP. Việt Nam hiện đang là sự lựa chọn ưu tiên của các công ty Mỹ có trụ sở tại Hồng Kông trong việc dịch chuyển đầu tư ra ngoài Trung Quốc. Nhiều công ty, tập đoàn lớn của Mỹ hiện đang có kế hoạch chuyển phần lớn cơ sở sản xuất sang Việt Nam như: Tập đoàn Nike, Inc, Tập đoàn dệt may Mast Industries, Ltd, P&G…
Amcham Singapore mới đây cũng công bố khoảng 57% doanh nghiệp Mỹ hoạt động trong khu vực ASEAN đánh giá Việt Nam là điểm đến hấp dẫn nhất để mở rộng đầu tư. Trong năm 2014, sau khi nhà máy Intel Products VN tại SHTP giới thiệu CPU Haswell “made in VN” đầu tiên, Tập đoàn Intel đã phát thông cáo cho rằng “sự kiện này đã đưa Intel tại VN lên một nấc thang mới”, đồng thời khẳng định “những CPU đầu tiên được đóng dấu “sản xuất tại VN” đã góp phần chứng minh khả năng của nguồn nhân lực cùng tiềm năng phát triển trong lĩnh vực sản xuất công nghệ tại đây, thu hút sự chú ý và nguồn vốn đầu tư quốc tế...”. Công ty Jabil VN (100% vốn Mỹ) - chuyên sản xuất các thiết bị điện tử tại SHTP - cũng đang xây dựng kế hoạch tăng vốn từ 200 triệu USD đầu tư ban đầu lên 1 tỉ USD nhằm mở rộng quy mô sản xuất hiện nay. Tập đoàn Microchip (Mỹ) cũng vừa mở rộng văn phòng hoạt động, gia tăng nhân sự lên gấp đôi và dự định thời gian tới sẽ xây dựng nhà máy sản xuất chip tại VN…
Các nhà đầu tư Mỹ cho rằng Việt Nam hiện đang có những yếu tố thuận lợi khiến các nhà đầu tư nước này quan tâm đến Việt Nam như: Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng, thị trường Việt Nam thân thiện đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; quan trọng hơn, Chính phủ Việt Nam có nhiều chính sách ưu đãi và các doanh nghiệp Việt Nam rất thiện chí hợp tác; người Việt Nam ham học hỏi và chăm chỉ, cần cù, chi phí nhân công rẻ và lao động ngày càng được nâng cao về chất lượng, dân số đông với mức thu nhập đang dần được cải thiện; tình hình kinh tế xã hội ổn định. Đây là tín hiệu tốt để giảm thiểu thất nghiệp, góp phần vào sự ổn định xã hội. Với lợi thế nguồn vốn lớn, có kỹ thuật, công nghệ hiện đại, có lượng Việt kiều đông đảo, quan hệ thương mại quy mô lớn… cùng với những điều kiện sẵn có của Việt Nam, “Giai đoạn đầu tư thứ 4” của Mỹ vào Việt Nam được kỳ vọng sẽ diễn ra mạnh mẽ trong thời gian tới.
Tuy nhiên, để làm được điều này, theo ông Fred Burke - thành viên ban lãnh đạo AmCham, Việt Nam cần cải thiện 4 yếu tố đang hạn chế tăng trưởng nội địa và thu hút đầu tư của nền kinh tế Việt Nam như: (i) Việt Nam chưa thực hiện mạnh mẽ các cam kết WTO trong lĩnh vực đầu tư và dịch vụ, khiến Việt Nam khó được hưởng lợi từ hiệu quả của các ngành chủ chốt đem lại; (ii) Sự hợp tác chính phủ - doanh nghiệp vẫn còn rời rạc trong nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế nhằm tăng khả năng cạnh tranh và khả năng thích ứng với môi trường WTO cho cả doanh nghiệp nhà nước lẫn các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii) Sự yếu kém về kết cấu hạ tầng trong lĩnh vực năng lượng và giao thông đã góp phần làm cho các nhà đầu tư FDI nản lòng; (iv) Sự thiếu hụt lao động có tay nghề cao đã làm cho các nhà đầu tư gặp khó khăn trong việc gia tăng chuỗi giá trị, ngay cả khi họ phải tăng thêm chi phí cho lao động./.