Để thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả
Thị trường chứng khoán (TTCK) là thể tài chính bậc cao và phức tạp, là thước đo và động lực phát triển kinh tế thị trường hiện đại của quốc gia. Đây là kênh huy động vốn hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời, cũng là nơi hội tụ và khởi nguồn những xung lực nhạy cảm nhất cho an ninh tài chính tiền tệ quốc gia.
Rủi ro trên thị trường chứng khoán
Sự phát triển lành mạnh TTCK có tác dụng quan trọng trong bảo đảm lòng tin và an ninh tài chính-tiền tệ. Đến lượt mình, sự ổn định và lành mạnh TTCK tùy thuộc nhiều nhân tố, trong đó có hàng (chứng khoán) tốt; Cơ chế kiểm soát giao dịch và thông tin tốt; Niềm tin của nhà đầu tư ; “Chữ tín” của tổ chức phát hành, công ty niêm yết/đăng ký giao dịch và các thành viên tham gia thị trường.
Đặc biệt, sự an toàn trên TTCK đòi hỏi các công ty đại chúng (CTĐC) phải công khai, minh bạch thông tin và sử dụng vốn góp của nhà đầu tư một cách có hiệu quả, tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật và thực hiện đầy đủ cam kết với cổ đông; Áp dụng các thông lệ quản trị công ty (QTCT) tốt nhất và một hệ thống kế toán, kiểm toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế; Sự quản lý, giám sát hiệu quả của cơ quan quản lý TTCK trên cơ sở có khung pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ, có cơ cấu tổ chức bộ máy phù hợp và triển khai hoạt động quản lý, giám sát tốt để vận hành TTCK.
Các rủi ro trên TTCK thường gắn trực tiếp và gián tiếp với thông tin, thậm chí tin đồn về các rủi ro trong kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết, về hoạt động của các tập đoàn tài chính và CTĐC, nhất là gắn với việc chúng lợi dụng “lỗ hổng pháp lý” về thanh tra, giám sát để tìm cách để lách những quy định hiện hành, lựa chọn cơ cấu sở hữu phức tạp nhằm tránh sự kiểm tra, giám sát hoặc gây trở ngại cho hoạt động giám sát của cơ quan chức năng, tham gia vào các hoạt động “ngân hàng ngầm” với các hình thức “cho vay” đa dạng như mua trái phiếu, đầu tư cổ phiếu vào tài sản bảo đảm đã được chứng khoán hóa, chứng khoán phái sinh, bảo lãnh tín dụng dưới nhiều hình thức.
Rủi ro “chuyển giao kỳ hạn và thanh khoản”, “rút vốn ồ ạt” từ các hoạt động “ngân hàng ngầm” này có thể tác động tiêu cực dẫn đến sự sụp đổ khu vực ngân hàng truyền thống. Khủng hoảng thông tin và niềm tin có thể làm trầm trọng hơn các rủi ro đó bởi được cộng hưởng bởi các hành động theo “xu hướng bầy đàn” của các nhà đầu tư
Ngoài ra, rủi ro trên TTCK cũng đến từ rủi ro bong bóng giá tài sản và đảo chiều dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn đầu tư nước ngoài gián tiếp (FPI). Việc các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn đột ngột, với quy mô lớn, sẽ gây mất ổn định hệ thống tài chính và làm chệch hướng mục tiêu của các chính sách vĩ mô.
Các tiêu chí giám sát an toàn quá trình vận hành của TTCK được quy định tại Thông tư số 226/2010/TT-BTC ngày 31/12/2010 quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng chỉ tiêu an toàn tài chính; Thông tư số 165/2012/TT-BTC ngày 09/10/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 226/2010/TT-BTC. Theo đó, tiêu chí quan trọng hàng đầu là đảm bảo tỷ lệ vốn khả dụng (so sánh giữa vốn khả dụng và tổng giá trị rủi ro).Những công ty chứng khoán có tỷ lệ vốn khả dụng dao động từ 120% đến 150% sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát và khi tỷ lệ vốn khả dụng thấp hơn 120% sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Riêng đối với thị trường tiền tệ - ngân hàng, các chuẩn mực quốc tế theo Basel II và hệ thống chỉ tiêu CAMELS được sử dụng để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng (Thông tư số 13/2010/TT-NHNN về quy định các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD; Thông tư số 19/2010/TT-NHNN về sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2010/TT-NHNN; Thông tư số 07/2013/TT-NHNN quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD).
TTCK Việt Nam đang từng bước khẳng định vai trò và vị thế vững chắc trong nền kinh tế như là một kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho DN và Chính phủ; Thúc đẩy quá trình tái cấu trúc các DN nhà nước; Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Thu hút vốn đầu tư nước ngoài và đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong khu vực và trên thế giới.
Theo đó, an ninh tài chính đối với hoạt động của các TCTD là việc đảm bảo sự an toàn nguồn vốn, an toàn hoạt động, trạng thái các tài sản (tài sản nợ, tài sản có và tài sản ròng) của các tổ chức tín dụng được thực hiện một cách ổn định, an toàn, vững mạnh.
Kiểm soát an ninh trên TTCK gắn chặt với sự hoàn thiện các cơ sở pháp lý liên quan, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của UBCK và các cơ quan quản lý liên quan; Trước mắt, cần thúc đẩy tiến trình và chất lượng sửa đổi Luật Chứng khoán theo hướng: Bổ sung thẩm quyền của UBCKNN bảo đảm thực thi tốt hoạt động quản lý, giám sát, thanh tra và cưỡng chế thực thi.
Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan liên quan (ngân hàng, thuế, đăng ký kinh doanh, công an...) trong phối hợp thực hiện; Sửa đổi, bổ sung quy định bảo đảm đa dạng hóa các sản phẩm chứng khoán được chào bán, xác định điều kiện phát hành phù hợp cho từng loại sản phẩm và nâng cao điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng; Sửa đổi về điều kiện, tiêu chí CTĐC cho phù hợp, hoàn thiện cơ chế quản lý, giám sát, nâng cao hiệu quả hoạt động của CTĐC.
Bên cạnh đó, thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) thông qua tỷ lệ sở hữu nhà nước của các CTĐC trên TTCK Việt Nam; Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động của thị trường giao dịch chứng khoán; Đa dạng hóa sản phẩm giao dịch, phương thức giao dịch, sản phẩm nghiệp vụ của sở giao dịch chứng khoán; Phát triển TTCK phái sinh; Hoàn thiện hệ thống giám sát giao dịch cho thị trường giao dịch chứng khoán Việt Nam; Hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, đa dạng hóa sản phẩm nghiệp vụ của Trung tâm Lưu ký Chứng khoán Việt Nam; Hoàn thiện quy định về các tổ chức định chế trung gian (công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán) theo hướng xây dựng hệ thống quản trị công ty và quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế tốt; Quy định rõ các dịch vụ tài chính mà CTCK được cung cấp cho khách hàng.
Bổ sung các quy định liên quan đến việc bảo vệ nhà đầu tư, nhất là quy định liên quan đến trách nhiệm của CTCK khi thực hiện làm trung gian, tư vấn liên quan đến từng loại sản phẩm và từng loại khách hàng; Hoàn thiện các quy định để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư, phát triển hệ thống nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp; Hoàn thiện quy định hiện hành về công bố thông tin trên TTCK phù hợp với sự phát triển của TTCK nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; bổ sung quy định dành cho các đơn vị trung gian trên thị trường (như công ty định mức tín nhiệm, tổ chức thẩm định giá, công ty quản lý tài sản, công ty kiểm toán độc lập...) về trách nhiệm của các đơn vị này liên quan đến chứng khoán và TTCK.
Đặc biệt, cần tiếp tục kiện toàn và nâng cao năng lực hoạt động của Vụ Giám sát CTĐC theo Quyết định số 48/2015/QĐ-TTg ngày 08/10/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBCKNN trực thuộc Bộ Tài chính, và Quyết định số 538/QĐ-BTC ngày 22/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính trong việc: Tăng cường giám sát hoạt động CTĐC và QTCT; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, các chính sách, giải pháp, đề án liên quan đến nâng cao chất lượng hoạt động, tính minh bạch và QTCT của CTĐC; Hướng dẫn chuyên môn, các quy định, tiêu chuẩn, quy trình nghiệp vụ liên quan đến giám sát việc sử dụng vốn huy động từ đợt chào bán chứng khoán của tổ chức phát hành; Văn bản giám sát hoạt động, QTCT của CTĐC; Góp ý văn bản về việc giám sát và kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên được chấp thuận thực hiện kiểm toán đối với các tổ chức có lợi ích công chúng trong lĩnh vực chứng khoán.
Cùng với đó là giám sát việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động sử dụng vốn thu được từ chào bán chứng khoán và việc thực hiện các nghĩa vụ sau chào bán của các tổ chức phát hành; Giám sát và lập báo cáo giám sát phân tích tình hình QTCT, các hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của CTĐC; Giám sát kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán của các tổ chức kiểm toán và kiểm toán viên được chấp thuận thực hiện kiểm toán đối với các tổ chức có lợi ích công chúng trong lĩnh vực chứng khoán; Giám sát các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài chuyển đổi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là CTĐC phát hành, niêm yết chứng khoán trên TTCK Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam phát hành, niêm yết chứng khoán trên TTCK nước ngoài; vấn đề góp vốn, mua cổ phần và niêm yết chứng khoán liên quan đến yếu tố nước ngoài; Giám sát hoạt động chào mua công khai và thâu tóm, sáp nhập trên TTCK...
Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) và sử dụng hệ thống CBTT điện tử của UBCKNN (IDS) là nhiệm vụ quan trọng để hỗ trợ các CTĐC thực hiện nghĩa vụ CBTT được thuận tiện, đầy đủ, kịp thời, đồng thời giúp UBCKNN giám sát CTĐC hiệu quả, tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc thực hiện nhiệm vụ này. Tính đến ngày 30/12/2016, số công ty đăng ký sử dụng hệ thống IDS là 1.670 công ty, tăng 226 công ty so với thời điểm ngày 31/12/2015, số công ty đã sử dụng hệ thống IDS để CBTT là 1.400 công ty, tăng 264 công ty so với ngày 31/12/2015.
Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện các nguyên tắc, khuôn khổ pháp lý mới về giao dịch, công bố thông tin, quản trị công ty, niêm yết và đăng ký giao dịch; Hỗ trợ các thị trường bộ phận phát triển hiệu quả để thúc đẩy TTCK phát triển sâu rộng theo hướng minh bạch, đồng bộ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các nhà đầu tư và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; Hợp nhất hai SGDCK và hoạt động theo mô hình Công ty TNHH Nhà nước một thành viên 100% vốn nhà nước và từng bước chuyển sang mô hình đa sở hữu; Tạo hàng hóa có chất lượng tốt cho thị trường; Tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các tổ chức tham gia thị trường, xử lý nghiêm các vi phạm đối với các cá nhân, tổ chức, DN đưa thông tin sai lệch hoặc đưa thông tin bất lợi cho thị trường mà không rõ nguồn gốc.
Tăng cường giám sát kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính (BCTC) của CTNY, đăng ký giao dịch trên UPCoM và CTĐC chưa niêm yết/đăng ký giao dịch, qua đó nâng cao tính minh bạch và chất lượng thông tin của BCTC công bố trên TTCK, đặc biệt tập trung đối với các công ty chưa tuân thủ nghĩa vụ báo cáo, công bố thông tin theo quy định, các công ty có hoạt động kinh doanh khó khăn, thua lỗ kéo dài, âm vốn chủ sở hữu, số liệu tài chính có sai lệch lớn...; Coi trọng tổng kết, nhận diện và phổ biến các vấn đề sai sót thường gặp trong BCTC kiểm toán và trao đổi một số vướng mắc khi triển khai thực hiện Thông tư số 200/2014/TT-BTC.
Ngoài ra, cần đa dạng hóa cơ sở nhà đầu tư và phát triển đồng bộ các thị trường (TTCK, thị trường tiền tệ - ngân hàng và thị trường bảo hiểm), thu hút các nhà đầu tư có tổ chức như Quỹ Bảo hiểm xã hội và doanh nghiệp bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu, cổ phiếu, trước mắt tập trung vào trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh. Đồng thời, có lộ trình cho phép đầu tư vào cổ phiếu có chất lượng, nhưng vẫn khống chế hạn mức nhằm đảm bảo an toàn vốn; Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý, giám sát, đảm bảo mức vốn an, tính minh bạch thông tin và tăng cường hiệu quả giám sát rủi ro; Nâng cao hiệu quả quản lý và giám sát chặt chẽ sự luân chuyển dòng vốn trực tiếp và gián tiếp quốc tế vào và ra lãnh thổ Việt Nam, theo hướng hạn chế rủi ro của các luồng vốn ngắn hạn, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập, kiểm soát đầu cơ.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục tổ chức hoạt động TTCK phái sinh, thị trường của các sản phẩm phòng ngừa rủi ro, nhằm cho phép các bên thực hiện giao dịch tài sản trong tương lai với một mức giá xác định từ trước, cho một thời gian xác định trước, giúp nhà đầu tư yên tâm về mức giá giao dịch đối với tài sản mình đang nắm giữ; giúp đa dạng hóa sản phẩm trên TTCK và mở ra một lớp sản phẩm chứng khoán mới để phòng ngừa rủi ro.
Việc thêm các công cụ giúp nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro khi giá chứng khoán biến động sẽ củng cố lòng tin cho thị trường, giúp các tổ chức, cá nhân yên tâm hơn khi đầu tư vào TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung, từ đó gia tăng số lượng nhà đầu tư, gia tăng nguồn vốn đầu tư trên thị trường, giúp doanh nghiệp dễ dàng phát hành chứng khoán, huy động vốn tốt hơn phục vụ cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy thị trường cổ phiếu phát triển và gia tăng khả năng phòng ngừa rủi ro cho các ngành, lĩnh vực kinh tế nói chung; Thúc đẩy toàn diện quá trình tái cấu trúc TTCK theo hướng gia tăng sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức, các nhà đầu tư chuyên nghiệp, tái cấu trúc các tổ chức kinh doanh chứng khoán nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng tiêu chí cao hơn về vốn, QTCT, quản trị rủi ro, nhân sự, hệ thống công nghệ, từ đó tạo hiệu ứng lan tỏa, nâng cao chất lượng dịch vụ cho nhà đầu tư trên TTCK.
Trong thời gian tới, an ninh trên TTCK cũng phụ thuộc vào sự ổn định thị trường tiền tệ - ngân hàng và xử lý rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại, đặc biệt là nhóm ngân hàng thương mại cổ phần có quy mô nhỏ và kinh doanh thiếu hiệu quả. Thực hiện giám sát chặt chẽ và áp dụng các biện pháp xử lý đối với các ngân hàng thương mại thuộc diện kiểm soát đặc biệt theo Thông tư số 07/2013/TT-NHNN (yêu cầu tăng vốn điều lệ; xây dựng, trình NHNN kế hoạch tái cơ cấu hoặc bắt buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại với các TCTD khác) nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của chính ngân hàng thương mại đó và hạn chế ảnh hưởng lan truyền rủi ro cho cả hệ thống.
Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần thực hiện tốt trách nhiệm công bố thông tin kịp thời, rõ ràng, minh bạch về các chính sách kinh tế - tài chính, cũng như các thông tin vĩ mô theo quy định của pháp luật.