Đề xuất cho phép Thủ tướng quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại

Minh Hà

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến rộng rãi Nhân dân góp ý vào dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi), trong đó đề xuất bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) đề xuất bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) đề xuất bổ sung cơ chế cho phép Thủ tướng Chính phủ quyết định xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Luật Dự trữ quốc gia số 22/2012/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Đây là khung pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện các hoạt động dự trữ quốc gia, bảo đảm mục tiêu chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, phục vụ quốc phòng, an ninh.

Quản lý, sử dụng nguồn lực dự trữ quốc gia hợp lý, hiệu quả

Đánh giá quá trình triển khai Luật Dự trữ quốc gia hiện hành, Tổng cục trưởng Tổng cục Dự trữ Nhà nước Vũ Xuân Bách cho biết, sau hơn 10 năm tổ chức thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, Nhà nước đã tạo lập được nguồn lực dự trữ quốc gia đủ mạnh; có cơ chế điều hành, quản lý sử dụng nguồn lực Dự trữ quốc gia hợp lý, hiệu quả.

Nhà nước đã chủ động ứng phó, xử lý kịp thời, hiệu quả các tình huống đột xuất, cấp bách, bảo đảm an sinh xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ổn định, bền vững.

Từ khi Luật Dự trữ quốc gia có hiệu lực (ngày 1/7/2013) đến nay, tổng mức dự trữ quốc gia và mức chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực Dự trữ quốc gia có sự tăng trưởng về giá trị tuyệt đối so với với giai đoạn trước, đảm bảo chủ động đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách theo mục tiêu dự trữ quốc gia.

hàng dự trữ quốc gia đảm bảo ứng cứu kịp thời, hiệu quả cho phòng, chống thiên tai, bão lũ, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và phục vụ an ninh, quốc phòng, góp phần đảm bảo ổn định sản xuất, đời sống người dân.

Theo đó, tổng mức dự trữ quốc gia có chuyển dịch theo xu hướng tăng về giá trị tuyệt đối trong giai đoạn 2013 - 2023. Tổng mức dự trữ quốc gia tính đến cuối năm 2023 tăng gần 1,5 lần so với thời điểm cuối năm 2013.

Chi ngân sách nhà nước cho mua hàng dự trữ quốc gia có tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn 2013 - 2023, mức chi NSNN cho dự trữ quốc gia năm 2023 cao gấp 3,5 lần so với năm 2013. Giá trị hàng dự trữ quốc gia xuất cấp trong mục tiêu Dự trữ quốc gia có xu hướng tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2013 đến 2021. Tổng giá trị hàng xuất cấp năm 2021 đạt 2.380 tỷ đồng, tăng 2,4 lần so với năm 2013.

Trong 2 năm gần đây, 2022 và 2023, giá trị hàng dự trữ quốc gia xuất cấp cho mục tiêu Dự trữ quốc gia sụt giảm đáng kể chỉ còn 664 tỷ đồng năm 2021 và 492 tỷ đồng vào năm 2022.

Mặc dù có sự tăng giảm biến động lớn về giá trị hàng dự trữ quốc gia xuất cấp nhưng từ khi Luật Dự trữ quốc gia có hiệu lực đến nay, hàng dự trữ quốc gia xuất cấp đáp ứng đủ 100% các đề xuất của các địa phương, bộ, ngành theo mục tiêu Dự trữ quốc gia cả về số lượng, chất lượng và chủng loại các mặt hàng.

Về danh mục hàng dự trữ quốc gia, đến nay, danh mục hàng dự trữ quốc gia quy định gồm 13 nhóm hàng dự trữ quốc gia được chi tiết thành 68 mặt hàng trong danh mục chi tiết hàng dự trữ quốc gia. Các mặt hàng quy định trong danh mục đảm bảo phù hợp với mục tiêu dự trữ quốc gia và tiêu chí hàng dự trữ quốc gia quy định tại Luật.

Cơ cấu hàng dự trữ quốc gia trong giai đoạn 2013 - 2023 chuyển dịch theo xu hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng phục vụ an ninh, quốc phòng; giảm tỷ trọng mặt hàng lương thực.

Nhìn chung, danh mục và cơ cấu mặt hàng dự trữ quốc gia dự trữ trong thời gian qua cơ bản phù hợp với nhu cầu sử dụng hàng dự trữ quốc gia, đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách theo mục tiêu Dự trữ quốc gia.

Sửa Luật Dự trữ quốc gia phù hợp với tình hình mới

Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, sau hơn 10 năm, thực hiện Luật Dự trữ quốc gia đã bộc lộ một số điểm bất cập, cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với tình hình mới.

Làm rõ về bất cập trong thực tiễn, Tổng cục trưởng Vũ Xuân Bách cho biết, Luật Dự trữ quốc gia hiện hành chưa có quy định điều chỉnh xử lý đối với tình huống Đảng và Nhà nước sử dụng nguồn lực dự trữ quốc gia để đối ngoại.

Trong những năm gần đây, trong tình huống cấp bách, khẩn cấp, nội dung này cần phải quy định trong Luật để bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện được chặt chẽ, đúng quy định.

Khoản 1, Điều 35 Luật Dự trữ quốc gia hiện hành quy định, Thủ tướng Chính phủ quyết định nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia trong 4 tình huống: Bệnh dịch xảy ra tại địa phương (theo công bố của Chủ tịch UBND tỉnh); phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh cứu đói; khi giá cả thị trường tăng, giảm đột biến; đáp ứng yêu cầu quốc phòng, an ninh.

Ngoài 4 tình huống trên, những năm gần đây, Đảng, Nhà nước sử dụng hàng dự trữ quốc gia để phục vụ công tác đối ngoại. Tuy nhiên, trong Luật Dự trữ quốc gia hiện hành chưa có quy định này, vì vậy, cần bổ sung quy định đối với tình huống này để đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện và phù hợp với tình hình thực tế, qua đó, giúp cho việc triển khai thực hiện được chặt chẽ, hiệu quả.

Đánh giá về tác động tới kinh tế - xã hội, Lãnh đạo Tổng cục DTNN cho rằng, việc bổ sung quy định xuất hàng dự trữ quốc gia “phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước” là để cụ thể hóa biện pháp thực hiện chủ trương thúc đẩy quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Đồng thời, nâng cao vị thế của Đất nước trên trường quốc tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước trong bối cảnh việc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng.

Tại dự thảo Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi), Bộ Tài chính đề xuất bổ sung thêm quy định: “đ) Phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước” vào khoản 1 Điều 35 Luật Dự trữ quốc gia; bổ sung thêm điểm “d) Trường hợp xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước, Bộ Ngoại giao có văn bản đề nghị Bộ Tài chính thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định” vào khoản 2 Điều 35 Luật Dự trữ quốc gia theo hướng trường hợp xuất hàng dự trữ quốc gia phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước.

Như vậy, việc bổ sung tình huống nhập, xuất hàng dự trữ quốc gia để phục vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện xuất hàng dự trữ quốc gia.