Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, sử dụng là cơ sở vật chất quan trọng để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cho xã hội, đồng thời là nguồn lực to lớn góp phần bảo đảm và nâng cao tự chủ tài chính của các đơn vị. Đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng nhằm quản lý chặt chẽ và khai thác có hiệu quả nguồn lực từ tài sản công là giải pháp quan trọng để thực hiện thành công Nghị quyết 19/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương.
Cơ sở pháp lý tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập
Theo thống kê của Cơ sở dữ liệu quốc gia (CSDL) về tài sản nhà nước đến 30/9/2017, tổng nguyên giá của 4 loại tài sản lớn (nhà, đất, xe ô tô, tài sản khác có nguyên giá từ 500 triệu đồng trở lên) tại đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) (chưa bao gồm các ĐVSNCL thuộc lực lượng vũ trang nhân dân) là: 326.112 tài sản (chiếm 64,19% tổng số lượng tài sản nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp), với tổng nguyên giá là 792.968,26 tỷ đồng (chiếm 72,60% tổng giá trị tài sản nhà nước khu vực hành chính sự nghiệp); trong đó, quyền sử dụng đất là 524.410,22 tỷ đồng, nhà là 193.871,71 tỷ đồng và tài sản khác là 74.686,33 tỷ đồng.
Trong thời gian qua, cơ chế và công tác quản lý, sử dụng tài sản công tại các ĐVSNCL đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhà nước đã xây dựng, ban hành tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công và tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công, tạo hành lang pháp lý để đổi mới công quản lý, sử dụng tài sản công tại ĐVSNCL.
Việc thực hiện rà soát, sắp xếp, bố trí sử dụng tài sản công, khai thác tài sản công dôi dư để tạo nguồn vốn đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp cũng được đẩy mạnh.
Công tác công nhận ĐVSNCL đủ điều kiện và tổ chức xác định giá trị tài sản để giao cho đơn vị quản lý theo cơ chế giao vốn cho doanh nghiệp (DN) được triển khai. Một số phương thức mới trong quản lý, sử dụng tài sản công; công tác quản trị tài sản trong các ĐVSNCL đã dần đi vào nề nếp; việc sử dụng tài sản sai mục đích, vượt tiêu chuẩn, định mức, sử dụng tài sản vào mục đích cá nhân cũng từng bước được khắc phục.
Tuy nhiên, cơ chế và công tác quản lý, sử dụng tài sản công trong các ĐVSNCL còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới hoạt động của ĐVSNCL, khai thác nguồn lực, thực hành tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, đặc biệt là cách phân loại ĐVSNCL, xác định giá trị tài sản để giao tài sản cho đơn vị quản lý.
Phương thức trang bị tài sản cho các ĐVSNCL chủ yếu bằng hiện vật, việc sử dụng công cụ thị trường còn ít, nguồn hình thành tài sản chủ yếu từ ngân sách nhà nước (NSNN) (theo CSDL về tài sản nhà nước, nguồn ngân sách trong nguyên giá chiếm khoảng 85%), đầu tư theo hình thức đối tác công - tư chưa được áp dụng nhiều.
Việc thực hiện chính sách khuyến khích xã hội hóa lĩnh vực giáo dục chưa được quan tâm đúng mức. Quỹ nhà, đất thuộc sở hữu nhà nước do các ĐVSNCL quản lý, sử dụng có số lượng và giá trị rất lớn nhưng hiệu suất sử dụng, khai thác chưa tương xứng. Cơ chế xử lý tài sản công còn mang tính chất nhỏ lẻ, manh mún do nhiều chủ thể cùng thực hiện.
Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất đã được thực hiện từ những năm 2006 - 2010 và giữ nguyên cho đến hiện nay, vì vậy, giá trị quyền sử dụng đất đang theo dõi trên sổ kế toán của đơn vị và CSDL về tài sản nhà nước thấp hơn so với mức giá hiện tại rất nhiều, chưa phản ánh đúng giá trị thực tế của tài sản.
Để khắc phục tình trạng trên, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008; Rà soát hệ thống pháp luật hiện hành có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài sản công; Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, xây dựng dự thảo Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của luật, các nhà khoa học, các chuyên gia... trên cơ sở đó, báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội.
Ngày 21/6/2017, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để thay thế cho Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2008. Luật này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Với việc ban hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, cơ chế quản lý tài sản công tại ĐVSNCL tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ với nhiều nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, không thực hiện chia ĐVSNCL thành ĐVSNCL tự chủ tài chính và ĐVSNCL chưa tự chủ tài chính như quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Việc không phân chia đơn vị sự nghiệp nhằm thống nhất cách phân loại ĐVSNCL về tài chính và tài sản, tạo cơ hội cho tất cả các đơn vị có đủ điều kiện có thể được sử dụng, khai thác tài sản công hiện có, gắn với việc huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư phát triển, khai thác nguồn lực tài chính từ tài sản công tại ĐVSNCL.
Thứ hai, bỏ quy định về việc xác định giá trị tài sản để giao cho ĐVSNCL quản lý theo cơ chế giao vốn cho DN nhằm giảm thủ tục hành chính, chi phí cho Nhà nước và đơn vị. Nguyên nhân là do các đơn vị hiện nay đều đã thực hiện việc hạch toán, theo dõi tài sản và giá trị tài sản trên sổ kế toán.
Việc đánh giá lại giá trị tài sản chỉ thực hiện trong các trường hợp như: Kiểm kê, đánh giá lại tài sản công theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Nâng cấp, mở rộng tài sản theo dự án được cơ quan, người có thẩm quyền phê duyệt; Giao, kiểm kê, điều chuyển những tài sản chưa được hạch toán trên sổ kế toán; Bán, thanh lý tài sản công, tài sản bị hư hỏng nghiêm trọng do thiên tai, hoả hoạn hoặc nguyên nhân khác; Sử dụng tài sản để liên doanh, liên kết, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự; Xử lý tài sản công khi chuyển đổi mô hình hoạt động của ĐVSNCL và trường hợp khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, tạo cơ chế cho ĐVSNCL huy động các nguồn lực của xã hội để đầu tư cơ sở vật chất cung cấp dịch vụ công. Theo đó, các ĐVSNCL được đầu tư xây dựng công trình sự nghiệp theo hình thức đối tác công - tư; Được sử dụng tài sản để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT; Được sử dụng tài sản của đơn vị để thế chấp hoặc thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự khác.
Đồng thời, Luật cũng khẳng định, không bố trí vốn đầu tư công, NSNN để đầu tư xây dựng mới, mua sắm tài sản chỉ sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết.
Thứ tư, quy định rõ việc tính hao mòn và trích khấu hao tài sản cố định tại ĐVSNCL. Theo đó, tài sản cố định tại ĐVSNCL được tính hao mòn. Các tài sản cố định tại ĐVSNCL phải trích khấu hao gồm: Tài sản cố định tại ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Tài sản cố định tại ĐVSNCL thuộc đối tượng phải tính đủ khấu hao tài sản cố định vào giá dịch vụ theo quy định của pháp luật; Tài sản cố định của ĐVSNCL khác được sử dụng vào hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết theo quy định của pháp luật.
Chi phí khấu hao tài sản cố định phải được phân bổ cho từng hoạt động sự nghiệp, hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết để hạch toán chi phí của từng hoạt động tương ứng.
Số tiền trích khấu hao tài sản cố định được bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của ĐVSNCL để bổ sung nguồn lực giúp các đơn vị tái tạo, tăng cường cơ sở vật chất. Riêng tài sản cố định được đầu tư, mua sắm từ nguồn vốn vay, vốn huy động thì số tiền trích khấu hao tài sản cố định được dùng để trả nợ trước khi bổ sung quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp của đơn vị.
Thứ năm, bổ sung quy định về việc xử lý tài sản khi chuyển đổi mô hình hoạt động của ĐVSNCL thành DN (bao gồm cả việc cổ phần hóa). Theo đó, khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chuyển đổi mô hình hoạt động của ĐVSNCL thành DN, các công việc phải thực hiện gồm: Tổ chức kiểm kê, phân loại tài sản đang quản lý, sử dụng; Xử lý đối với tài sản thừa, thiếu, tài sản không có nhu cầu sử dụng, tài sản chờ thanh lý theo chế độ quy định; Xác định giá trị tài sản để tính vào giá trị ĐVSNCL được chuyển đổi; Quyết định giao tài sản công của ĐVSNCL cho DN sau khi chuyển đổi; Bàn giao tài sản cho DN được chuyển đổi từ ĐVSNCL; Sau khi nhận bàn giao, DN được chuyển đổi từ ĐVSNCL phải hoàn thành hồ sơ về tài sản, đất đai và gửi đến cơ quan có thẩm quyền để thực hiện chuyển quyền quản lý, sử dụng tài sản từ ĐVSNCL sang DN; Thực hiện thủ tục hành chính và nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật có liên quan.
Thứ sáu, trao quyền tự chủ mạnh hơn cho các đơn vị và thủ trưởng các ĐVSNCL (đặc biệt là các đơn vị tự đảm bảo toàn bộ chi thường xuyên trở lên) trong việc đầu tư, mua sắm, quyết định định mức sử dụng tài sản chuyên dùng; Sử dụng tài sản công vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết; Xử lý tài sản công gắn với việc công khai, minh bạch, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm.
Ngoài các nội dung trên, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công còn có nhiều quy định khác nhằm bảo đảm việc quản lý, sử dụng tài sản công tại ĐVSNCL được chặt chẽ, tiết kiệm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để đổi mới cơ chế và triển khai thực hiện quản lý, sử dụng tài sản công tại ĐVSNCL trong giai đoạn tới.
Góp phần bảo đảm và nâng cao tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập
Việc mở rộng trao quyền tự chủ cho ĐVSNCL đã góp phần nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công; Tạo điều kiện cho người dân có thêm cơ hội lựa chọn, tiếp cận các dịch vụ công với chất lượng ngày càng cao, góp phần cải thiện thu nhập của người lao động tại các đơn vị sự nghiệp, tuy nhiên đến nay, hoạt động này vẫn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc. Để bảo đảm và nâng cao tự chủ tài chính của ĐVSNCL, thời gian tới, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, ban hành kịp thời, đầy đủ các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Theo danh mục được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1357/QĐ-TTg ngày 13/9/2017, các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Quản lý, sử dụng tài sản công gồm: 14 Nghị định của Chính phủ và 3 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Trong đó, có nhiều văn bản trực tiếp điều chỉnh hoặc có liên quan đến quản lý, sử dụng tài sản công tại các ĐVSNCL như: Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Các nghị định, quyết định quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp, xe ô tô, máy móc, thiết bị; Nghị định quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công; Nghị định quy định việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện dự án BT... Phần lớn các văn bản hiện đã được Bộ Tài chính hoàn tất và trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xem xét, ban hành.
Thứ hai, đổi mới hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công để hạn chế việc trang bị bằng hiện vật, chuyển dần sang cơ chế khoán có tính chất bắt buộc và thực hiện phương thức thuê dịch vụ và Nhà nước đặt hàng; Xác định cụ thể từng đối tượng được trang bị tài sản; đồng thời, xác định công năng sử dụng của tài sản để trang bị cho nhiều đối tượng dùng chung phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và thực tế ở từng đơn vị, tuyệt đối không để lãng phí trong việc trang bị, mua sắm tài sản.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong quyết định định mức tài sản sử dụng vào mục đích có tính chất kinh doanh dịch vụ cho Thủ trưởng ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; Kiểm soát chặt chẽ tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản ngay từ khâu lập, phê duyệt kế hoạch xây dựng mới, mua sắm, nâng cấp, cải tạo công trình sự nghiệp và các tài sản khác.
Thứ ba, ban hành danh mục tài sản được sử dụng vào mục đích kinh doanh, tài sản chỉ sử dụng vào mục đích xã hội phù hợp với từng lĩnh vực hoạt động sự nghiệp: Y tế, dân số, gia đình; giáo dục - đào tạo, dạy nghề; khoa học và công nghệ; văn hóa, thể dục, thể thao; thông tin và truyền thông; sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác.
Đây là cơ sở để các bộ, ngành, địa phương, đơn vị thực hiện việc quản lý, sử dụng, khai thác tài sản đúng quy định, không để việc lợi dụng chính sách khai thác tài sản vào mục đích kinh doanh, xã hội hóa để sử dụng tài sản sai mục đích.
Thứ tư, tổ chức kiểm kê, đánh giá lại tài sản công trong các ĐVSNCL nhằm nắm rõ về số lượng, chất lượng, chủ thể quản lý, sử dụng tài sản; đồng thời, xác định giá trị của tài sản phù hợp với thực tế, đặc biệt đối với giá trị quyền sử dụng đất.
Trên cơ sở tổng kiểm kê, đánh giá lại tài sản, thực hiện rà soát, sắp xếp lại toàn bộ tài sản công đang giao cho các ĐVSNCL quản lý, sử dụng theo hướng tiếp tục giữ lại sử dụng các tài sản phục vụ thực hiện nhiệm vụ được giao, phù hợp với tiêu chuẩn, định mức.
Các tài sản không còn nhu cầu sử dụng hoặc không phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ được thực hiện xử lý bán, thanh lý, tạo nguồn thu bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp nhằm đầu tư trở lại cho đơn vị; Xử lý dứt điểm các vi phạm, tồn tại phát hiện qua kiểm kê, đánh giá lại (như: bố trí nhà ở cho cán bộ, viên chức trong khuôn viên, cho thuê, cho mượn, bị lấn chiếm...); Xử lý trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để xảy ra vi phạm; Chú trọng công tác tổ chức thực hiện phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất, phương án di dời đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ năm, Nhà nước tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sự nghiệp công lập; Tập trung đầu tư xây dựng một số cơ sở dùng chung như: Trung tâm dữ liệu quốc gia, hệ thống thư viện điện tử, phòng thí nghiệm trọng điểm, ký túc xá, các cơ sở văn hóa, thể dục thể thao...
Các địa phương điều chỉnh quy hoạch, dành quỹ đất để xây dựng các ĐVSNCL hiện đại, đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, đẩy mạnh áp dụng hình thức đối tác công - tư trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của các ĐVSNCL nhằm sử dụng hiệu quả hơn quỹ đất hiện có. Theo đó, các cơ sở công lập sử dụng cơ sở vật chất sẵn có, các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư xây dựng, cùng nhau phân chia kết quả hoặc khai thác, vận hành tài sản...
Thứ sáu, nâng cao chất lượng quản trị tài sản công của các ĐVSNCL. Các đơn vị cần ban hành, rà soát Quy chế quản lý, sử dụng tài sản công nhằm xác định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của từng bộ phận, từng cá nhân và mối quan hệ phối hợp giữa các bộ phận, cá nhân trong từng khâu, từng việc của quy trình quản lý, sử dụng, khai thác tài sản.
Đồng thời, thực hiện nghiêm việc công khai tình hình quản lý, sử dụng, khai thác tài sản công trong đơn vị theo quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở để cán bộ, viên chức, người lao động giám sát; Xây dựng các tiêu chí đánh giá và tổ chức đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng, khai thác tài sản công; Thí điểm thực hiện việc thuê tổ chức chuyên nghiệp quản lý vận hành tài sản công.
Thứ bảy, nâng cao hiệu quả xử lý tài sản công tại ĐVSNCL theo hướng công khai, minh bạch. Ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiện và kiểm soát việc xử lý tài sản công. Sử dụng các tổ chức cung cấp dịch vụ liên quan đến tài sản công trong việc xác định giá trị tài sản, lựa chọn nhà đầu tư, nhà cung cấp, tổ chức đấu giá tài sản có quyết định bán, thanh lý.
Đơn vị được giao xử lý tài sản có trách nhiệm giám sát toàn bộ quá trình xử lý tài sản, kể cả trường hợp thuê các tổ chức chuyên nghiệp thực hiện. Kiểm kê, phân loại tài sản, xác định giá trị ĐVSNCL chuyển đổi mô hình thành DN đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi của Nhà nước.
Thứ tám, tiếp tục thực hiện hiện đại hóa công tác quản lý tài sản công và nâng cấp CSDL về tài sản công, bảo đảm từng bước CSDL có đầy đủ thông tin về tài sản công. Trong đó, đối với tài sản công tại ĐVSNCL cần bổ sung thông tin về tài sản thương hiệu, tài sản cố định; thông tin về khai thác tài sản công như: Tài sản được hình thành từ vốn huy động, tài sản được hình thành qua liên doanh, liên kết hoặc đầu tư theo hình thức PPP, kết quả từ việc sử dụng tài sản vào mục đích kinh doanh dịch vụ...
Thứ chín, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản công.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Quản lý, sử dụng tài sản công;
2. Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
3. Báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản nhà nước năm 2016;
4. Các dự thảo Nghị định quy định chi tiết Luật Quản lý, sử dụng tài sản công;
5. Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản nhà nước.