Đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế
Mô hình tăng trưởng theo chiều rộng kể từ khi đổi mới đến nay đã tạo ra những bước tiến đáng kể đối với kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế là cần thiết và đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đang gặp phải không ít khó khăn, thách thức. Để tiếp tục ổn định vĩ mô và lấy lại đà tăng trưởng, tạo nền tảng chuyển đổi thành công mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, cần có những giải pháp mang tính đột phá, căn cơ chiến lược và dài hạn.
Bối cảnh, điều kiện thực tiễn phát triển kinh tế của thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sẽ khó có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong dài hạn. Chỉ khi có sự gia tăng về năng suất mới nâng cao được tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng bền vững, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Nhận thức được những tồn tại trên, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đặt ra yêu cầu “Chuyển đồi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững”.
Triển khai Nghị quyết Đại hội XI, Kết luận số 10-KL/TW (ngày 18/10/2011) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về tình hình kinh tế - xã hội, tài chính ngân sách nhà nước 5 năm 2006-2010 và năm 2011” đã chỉ rõ những nhiệm vụ cần thực hiện để đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó nhấn mạnh thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế với 3 trọng tâm và thực hiện 3 đột phá chiến lược. Mô hình này từ khi triển khai đến nay đã tạo ra những bước tiến đáng kể đối với kinh tế Việt Nam. Việc thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế là cần thiết và đã mang lại những kết quả tích cực, tuy nhiên, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đang gặp phải khá nhiều khó khăn, thách thức.
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng liên tục trong 30 năm qua
Thứ nhất, mô hình tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng đã bước đầu có sự chuyển biến sang kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu, chú ý hơn đến chất lượng tăng trưởng. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư được cải thiện, hệ số gia tăng vốn đầu ra (ICOR) giảm từ 6,96 (giai đoạn 2006-2010) xuống khoảng 6,5 (giai đoạn 2011-2015). Lực lượng sản xuất đã có nhiều tiến bộ cả về số lượng và chất lượng.
Những nỗ lực cải cách đã cải thiện được một số chỉ số chất lượng tăng trưởng, đưa nền kinh tế có xu hướng phát triển theo chiều sâu. Tốc độ tăng năng suất lao động giai đoạn 2011-2015 ở mức trung bình 4,3%, cao hơn so với 3,4% giai đoạn 2006-2010; đóng góp năng suất của các nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng kinh tế được nâng từ mức 4,28% (giai đoạn 2006-2010) lên 28,94% (giai đoạn 2011-2015).
Thứ hai, trong gần 30 năm qua (1986-2015), nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng liên tục với tốc độ khá ấn tượng và rất đáng tự hào. GDP bình quân giai đoạn 1986-2015 là 6,6%; cao hơn một số nước trong khu vực như Malaysia là 6%, Thái Lan là 5,3%, Hàn Quốc là 6,1%... Sau 26 năm (1989-2015), quy mô GDP của Việt Nam tăng 30,4 lần.
Thứ ba, nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố, nhiều chính sách, giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô được thực hiện và đã cơ bản lấy lại niềm tin cho thị trường, đảm bảo môi trường kinh doanh ổn định, tạo tiền đề cần thiết để đổi mới mô hình tăng trưởng. Lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được đảm bảo.
Thứ tư, tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế bước đầu đã thu được kết quả và tác động tích cực đến đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc thực hiện triển khai 3 đột phá chiến lược đã mang lại những kết quả bước đầu, tạo điều kiện thuận lợi hơn để tiến hành đổi mới mô hình tăng trưởng. Trong đó, quá trình tái cơ cấu các ngành đã và đang được triển khai thực hiện, góp phần hình thành cơ cấu ngành hợp lý, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành.
Thứ năm, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiếp tục được đẩy mạnh và đã đạt một số kết quả nhất định. Tỷ trọng công nghiệp chế tạo, chế biến trong GDP tăng từ 12,9% (năm 2011) lên 13,6% (năm 2015). Tỷ trọng công nghiệp khai thác giảm dần từ 11,4% (năm 2011) xuống còn 9,6% (năm 2015). Tốc độ tăng trưởng của ngành Thương mại tăng dần lên đến mức hơn 10% năm 2015…
Thứ sáu, cơ cấu lao động có sự chuyển dịch tích cực, chất lượng nguồn nhân lực bước đầu được cải thiện và đội ngũ doanh nhân đã có đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ bảy, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, góp phần thúc đẩy quá trình tham gia vào mạng sản xuất, chuỗi giá trị toàn cầu, nâng cao giá trị gia tăng của nền kinh tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Việc tham gia và thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo những cú hích quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Một số tồn tại và hạn chế
Dù đã đạt được những kết quả ban đầu nhưng về cơ bản, phương thức phân bổ nguồn lực xã hội chưa thay đổi, mô hình tăng trưởng vẫn chủ yếu phát triển theo chiều rộng, mở rộng quy mô, nhiệm vụ nâng cao chất lượng, hiệu quả, đặc biệt là tính bền vững chưa đạt yêu cầu của Nghị quyết Đại hội XI và Kết luận số 10-KL/TW của Hội nghị Trung ương 3 khóa XI. Cụ thể:
Thứ nhất, chưa có sự nhận thức sâu sắc và thống nhất cao về mô hình tăng trưởng mới, nhất là về các động lực cho tăng trưởng. Mô hình tăng trưởng chưa có sự đổi mới rõ rệt theo chủ trương của Đảng; nền kinh tế vẫn chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng, còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiều vào tri thức, khoa học - công nghệ.
Tuy tăng trưởng đã phục hồi nhưng sản xuất trong nước vẫn còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu; công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên, phụ liệu. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát triển còn chậm, chiếm tỷ trọng thấp trong cơ cấu GDP.
Thứ hai, các cân đối lớn về kinh tế vĩ mô ổn định hơn nhưng chưa thực sự bền vững. Tăng trưởng kinh tế còn thấp so với tiềm năng, nhiều nút thắt tuy đã được nhận diện nhưng chậm tháo gỡ. Các cân đối vĩ mô lớn của Việt Nam đang phải đối mặt với một số rủi ro:
(i) Về tỷ lệ tiết kiệm - đầu tư: Từ đầu những năm 2000 đến nay, tỷ lệ tiết kiệm của Việt Nam thường thấp hơn đầu tư (do đầu tư tăng cao), trong khi tỷ lệ tiết kiệm trong nước tương đối ổn định. Điều này cho thấy, rủi ro trong việc phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài cũng như phản ánh sự kém hiệu quả trong sử dụng vốn đầu tư hiện nay.
(ii) Về cân đối tài khóa: Bội chi tăng cao và tăng phát hành trái phiếu chính phủ đang tạo ra các áp lực đối với giới hạn an toàn nợ công hiện nay.
(iii) Về cán cân thương mại: Đã cân bằng hơn nhưng chưa bền vững. Xuất nhập khẩu Việt Nam phụ thuộc nhiều vào các yếu tố bên ngoài như giá cả, thị trường, đầu tư nước ngoài, trong khi nhu cầu nhập khẩu lại khá lớn.
Thứ ba, hiệu quả sử dụng các nguồn lực chậm cải thiện, chưa thực sự gắn với các định hướng ưu tiên về phát triển. Cách thức và phương thức phân bổ, sử dụng nguồn lực vẫn còn thiên về phát triển chiều rộng. Đến nay, nhìn chung vẫn chưa hình thành được các tiêu chí cụ thể trong việc xác định “tính ưu tiên” trong các dự án đầu tư công nên việc khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải chậm được tháo gỡ.
Cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư tư nhân chưa có sự đột phá mạnh; việc thu hút các nguồn lực bên ngoài vẫn theo mục tiêu số lượng hơn là chất lượng, chưa chú trọng thu hút vốn theo chiều sâu, đầu tư vào các ngành có hàm lượng công nghệ cao và hiện đại.
Thứ tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm so với yêu cầu, cơ cấu các ngành sản xuất còn bộc lộ nhiều bất cập. Bên cạnh đó, sự hợp tác, liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu; công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển cũng như lúng túng trong việc xác định các định hướng cụ thể về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu tăng cao nhưng sản xuất vẫn dựa đáng kể vào vật tư, linh kiện, nguyên liệu nhập khẩu, hàm lượng giá trị gia tăng của xuất khẩu thấp.
Thứ năm, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế vẫn còn thấp: Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, thứ hạng về năng lực cạnh tranh của Việt Nam tăng chủ yếu nhờ vào nỗ lực cải thiện các yếu tố cơ bản như môi trường kinh tế vĩ mô, y tế, giáo dục tiểu học và cơ sở hạ tầng.
Trong gần 30 năm qua (1986-2015), nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng liên tục với tốc độ khá ấn tượng và rất đáng tự hào. GDP bình quân giai đoạn 1986-2015 là 6,6%; cao hơn một số nước trong khu vực như Malaysia là 6%, Thái Lan là 5,3%, Hàn Quốc là 6,1%... Sau 26 năm (1989-2015), quy mô GDP của Việt Nam tăng 30,4 lần.
Thứ sáu, chất lượng tăng trưởng không cao và cải thiện chậm. Hệ số ICOR mặc dù đã được cải thiện khi giảm từ mức cao nhất 8,4 lần (năm 2009) xuống 5,18 lần (năm 2015) và trung bình 5,24 lần giai đoạn 2011-2015, song còn ở mức cao gấp 2-3 lần so với khu vực và tiêu chuẩn Ngân hàng Thế giới đối với nước đang phát triển (ICOR chỉ 3-4 lần).
Thứ bảy, việc xây dựng và triển khai Đề án tổng thể tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh còn chậm. Quá trình phê duyệt đề án tái cơ cấu tại một số địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại còn diễn ra chậm. Một số văn bản hướng dẫn chưa được ban hành kịp thời dẫn đến kết quả còn hạn chế, chưa đủ sức tạo ra chuyển biến rõ nét trong đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế…
Đẩy mạnh hơn nữa đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
Cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã ban hành Nghị quyết 05-NQ/TW ngày 01/11/2016 về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mô hình tăng trưởng những năm tới của nước ta cần được thiết kế dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả cùng với sự đổi mới sáng tạo, hướng tới sự phát triển nhanh và bền vững:
Phương thức thực hiện: Tăng trưởng dựa trên sự kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, tùy theo tình hình thực tế của từng ngành, lĩnh vực và địa phương để kết hợp hợp lý. Trong đó, lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo; được thực hiện trên nền tảng thể chế kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn kết chặt chẽ với thực hiện 3 đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế với các trọng tâm ưu tiên.
Chiến lược tăng trưởng: Chuyển tăng trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư sang phát triển đồng thời cả về đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng.
Động lực tăng trưởng: Cần dựa trên năng suất lao động, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Nguồn lực tăng trưởng: Tăng trưởng trên cơ sở khai thác, phát huy nguồn nội lực có vai trò quyết định, đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Chú trọng giải quyết hài hòa giữa hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu, rộng với giữ vững độc lập, tự chủ về kinh tế; không để lệ thuộc vào một lĩnh vực, một đối tác bên ngoài trong phát triển kinh tế đất nước; gắn hội nhập quốc tế với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng của nền kinh tế.
Mục tiêu tăng trưởng: Hướng tới các mục tiêu dài hạn, tăng trưởng bền vững, hiệu quả và vì con người.
Để thực hiện hiệu quả mô hình trên, bài viết đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế:
Một là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô. Tiếp tục ổn định và củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc; kiểm soát tốt lạm phát; bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước và nợ công theo hướng bảo đảm an toàn, bền vững; xử lý có hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế gắn với cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng.
Hai là, tiếp tục thực hiện 3 đột phá chiến lược gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng bộ, hiện đại, thực hiện đầy đủ các quy luật của kinh tế thị trường trong quản lý, điều hành nền kinh tế vĩ mô. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản trị nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường vai trò của cơ chế thị trường, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho tất cả các ngành, lĩnh vực, doanh nghiệp, phù hợp với các cam kết quốc tế. Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại thị trường đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, ưu tiên phát triển và chuyển giao khoa học - công nghệ, nhất là khoa học-công nghệ hiện đại, coi đây là yếu tố trọng yếu nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp; khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nghiệp tham gia nghiên cứu, phát triển và chuyển giao khoa học-công nghệ.
Bốn là, đẩy mạnh cơ cấu lại tổng thể các ngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cả nước và từng địa phương, doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn, có lộ trình cụ thể; gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu lại tổng thể nền kinh tế với cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực trọng tâm.
Năm là, phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, để khu vực này thực sự là một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.
Sáu là, đổi mới cách thức thực hiện liên kết, phối hợp giữa các địa phương trong phát triển kinh tế vùng; thực hiện có hiệu quả quá trình đô thị hoá. Nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương và hình thành thể chế điều phối phát triển kinh tế theo vùng.
Bảy là, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chính sách quốc phòng, an ninh phải tạo thuận lợi và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời, phát triển kinh tế phải góp phần gia tăng tiềm lực quốc phòng, an ninh. Ưu tiên phát triển mạnh các ngành kinh tế biển, gắn với bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
Tám là, đổi mới phương thức, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng xây dựng nhà nước quản lý và phục vụ; đồng thời, tăng cường khả năng điều tiết, giám sát, kiểm tra và thanh tra theo mức độ rủi ro và tuân thủ pháp luật của đối tượng quản lý; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật.
Tài liệu tham khảo:
1. CIEM (2016), Xác định rõ nội hàm đổi mới mô hình tăng trưởng;
2. TS. Nguyễn Xuân Trung, Kinh tế xanh trong đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam giai đoạn tới; Viện Khoa học Xã hội Việt Nam;
3. Website: dangcongsan.vn, vcci.com.vn, chinhphu.vn, mof.gov.vn…