Dự báo mặt bằng lãi suất ngân hàng năm 2025
Dự báo, năm 2025, mặt bằng lãi suất sẽ tăng nhẹ nhưng tiếp tục duy trì mặt bằng thấp; Lãi suất cho vay dự kiến đi ngang trong nửa đầu năm trước khi tăng trở lại trong giai đoạn cuối năm.
Lãi suất tiết kiệm có sự phân hoá giữa các ngân hàng
Năm 2024, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực hiện nhiều biện pháp linh hoạt trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2) nhằm ổn định tỷ giá và duy trì thanh khoản hệ thống ngân hàng. Cụ thể, trong các giai đoạn tỷ giá chịu áp lực tăng cao, như tháng 5-6/2024 và cuối năm, NHNN đã tập trung vào hoạt động hút ròng thông qua phát hành tín phiếu, nhằm giảm lượng tiền đồng trong lưu thông và kiểm soát áp lực mất giá của VND.
Trên thị trường, đầu năm 2024, lãi suất huy động tiếp tục xu hướng giảm từ năm 2023 và chạm mức đáy, thấp hơn cả giai đoạn đáy lãi suất trong thời kỳ COVID-19. Tuy nhiên, lãi suất bắt đầu ghi nhận tăng tại các ngân hàng kể từ tháng 4, mức tăng đáng kể đặc biệt là với các kỳ hạn ngắn, trong khi nhóm ngân hàng quốc doanh không có sự thay đổi nhiều về lãi suất huy động trong cả năm 2024.
Sang năm 2025, theo Công ty Chứng khoán KB Việt Nam (KBSV), NHNN sẽ tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng, giữ lãi suất ở mặt bằng thấp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (với mục tiêu Quốc hội đặt ra là 6,5-7%). Do vậy lãi suất huy động thị trường 1 có thể tăng nhẹ nhưng vẫn ở mức thấp, dự báo tăng 30-100 điểm cơ bản (tuỳ nhóm ngân hàng).
Mức tăng lãi suất huy động sẽ có sự phân hoá giữa các ngân hàng. Tại nhóm Ngân hàng quốc doanh, lãi suất huy động có thể tăng 30-50 điểm cơ bản từ mức hiện tại. Mức tăng này vẫn thấp hơn nhóm ngân hàng thương mại tư nhân do có sự hỗ trợ từ tiền gửi Kho bạc Nhà nước nên vấn đề thanh khoản không quá lo ngại.
Nhóm ngân hàng thương mại còn lại sẽ có sự phân hoá và mức tăng cũng sẽ lớn hơn (50- 100 điểm cơ bản). Những ngân hàng quy mô nhỏ, không có lợi thế về CASA sẽ chịu áp lực nhiều hơn trong việc tăng lãi suất huy động.
Lãi suất cho vay tăng cuối năm
Theo NHNN, lãi suất cho vay bình quân năm 2024 giảm 1,72% so với năm 2023 và hiện đang đi ngang ở mức hiện tại. Diễn biến này phù hợp trong bối cảnh Chính phủ định hướng chính sách duy trì lãi suất thấp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó, các ngân hàng thương mại thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ lãi suất giúp khách hàng hồi phục sau thiên tai.
KBSV cho rằng, việc duy trì mặt bằng lãi suất cho vay thấp đóng vai trò quan trọng cho mức tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng bền vững phải đến từ sự hồi phục và gia tăng nhu cầu vốn. Đđiều này được thể hiện trong giai đoạn 6 tháng đầu năm 2024 khi lãi suất giảm đáng kể nhưng tín dụng vẫn tương đối ảm đạm.
KBSV kỳ vọng, tín dụng năm 2025 được kỳ vọng dẫn dắt chủ yếu bởi nhu cầu thực trong bối cảnh nền kinh tế hồi phục. Dự báo lãi suất cho vay sẽ đi ngang từ mức hiện tại trong nửa đầu năm 2025, trước khi hồi phục trong nửa cuối năm.
Đà hồi phục của lãi suất cho vay phản ánh nhu cầu tín dụng của nhóm doanh nghiệp và cá nhân cải thiện tốt nhờ vĩ mô ổn định, thị trường bất động sản hồi phục; độ trễ với lãi suất huy động (độ trễ từ 6-12 tháng) và sự chuyển giao chi phí đầu vào cho khách hàng của các ngân hàng; giảm bớt các chương trình hỗ trợ khách hàng, gói vay ưu đãi như năm trước.
Ngân hàng UOB dự báo, Chính phủ và NHNN sẽ tiếp tục giữ các mức lãi suất chính sách như hiện nay trong một chính sách tiền tệ trung hòa trong vài tháng đầu năm 2025.
Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu NHNN tập trung giảm mặt bằng lãi vay, nhất là kiểm soát chặt chẽ lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại. Qua đó, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, bảo đảm đưa vốn tín dụng vào nền kinh tế thực chất, hiệu quả nhất…
Lãnh đạo NHNN chia sẻ rằng, việc điều hành lãi suất cho vay hiện gặp không ít khó khăn do áp lực từ thị trường quốc tế và tình hình trong nước. Biến động của USD, cùng với những căng thẳng về cung, cầu ngoại tệ, đã khiến NHNN phải ưu tiên ổn định tỷ giá.
Nếu lãi suất cho vay giảm mạnh, tỷ giá có nguy cơ tăng cao, gây mất ổn định kinh tế vĩ mô và tâm lý lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu gia tăng cũng làm gia tăng áp lực lên hệ thống ngân hàng. Để bảo đảm hoạt động, các ngân hàng buộc trích lập dự phòng rủi ro, làm giảm lợi nhuận và hạn chế khả năng tiếp tục giảm lãi suất cho vay.