Giá trị của độc lập, tự do
Cách đây tròn 80 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền và làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang của dân tộc ta. Thực tế 80 năm qua lại một lần nữa khẳng định giá trị đích thực của độc lập, tự do: Chỉ có độc lập, tự do mới đem lại cho đất nước và toàn thể nhân dân Việt Nam một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, ấm no.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Và đến cuối văn bản quan trọng này, Người đã thay lời cả mấy mươi triệu đồng bào khẳng định với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Như vậy qua lời Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng, là quyền bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc trên trái đất này. Với dân tộc Việt Nam ta, giá trị của độc lập, tự do lại càng thiêng liêng bởi phải đánh đổi bằng máu xương của hơn 1.146.250 liệt sĩ, hơn 800.000 thương binh, bệnh binh, gần 111.000 người hoạt động cách mạng, kháng chiến bị địch bắt tù đày cùng hàng vạn nạn nhân phải mang trong mình di chứng của chất độc da cam/dioxin qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế với Lào, Campuchia…
Thế hệ chúng tôi sinh ra sau Cách mạng Tháng Tám, không được tận mắt chứng kiến nỗi nhục mất nước, chỉ được chứng kiến nỗi mất mát do chiến tranh. Thế nhưng, mỗi khi nghe người già kể lại, xem bộ phim “Sao tháng Tám”, đọc các tác phẩm văn học của các nhà văn: Kim Lân, Tô Hoài... tôi lại hình dung ra một thời kỳ đất nước vô cùng khốn khó. Trong cuốn sách “Nạn đói năm 1945 ở Việt Nam-những chứng tích lịch sử” của GS Nguyễn Văn Tạo và GS Furuta Moto (công bố năm 1995), nước mắt tôi tuôn chảy khi thấy tác giả miêu tả hình ảnh đói khổ bao quanh những thân phận con người.
Nếu như nạn đói diễn ra chỉ một vài tháng trong năm thì nỗi nhục mất nước, mất tự do lại triền miên suốt năm, suốt tháng. Tính từ năm 1858 (năm thực dân Pháp nổ súng mở đầu cuộc xâm lược tại Đà Nẵng) đến ngày 2/9/1945, đất nước ta đã trải qua 87 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Đó là quãng thời gian bị đô hộ dài nhất kể từ năm 938, khi Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược Nam Hán, khôi phục nền độc lập. Nước Việt đã không còn trên bản đồ thế giới, đã bị chia làm 3 miền, đã bị lẫn vào địa danh “xứ Đông Dương thuộc Pháp”. Người dân một cổ hai tròng, sống đời nô lệ, đói rách lầm than, tối mặt với sưu cao, thuế nặng, lao dịch phu phen...

Cách mạng Tháng Tám thành công đã trả lại tên cho Nước Việt Nam, trả lại nền tự do, độc lập mà dân tộc ta có quyền được hưởng. Bảo Đại - vị vua cuối cùng của chế độ phong kiến, cũng đã phải thốt lên rằng: “Làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”.
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó cứu đói là nhiệm vụ hàng đầu và phong trào “diệt giặc đói” được triển khai ngay. Bằng nhiều giải pháp như: Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, san sẻ lương thực, thực phẩm... chỉ trong một thời gian ngắn, nạn đói được đẩy lùi. Chiến thắng giặc đói là một trong những thành tựu lớn đầu tiên của Nhà nước cách mạng, thể hiện tính ưu việt của chế độ mới.
Cùng với “Diệt giặc đói” là phong trào “Diệt giặc dốt”. Từ chỗ 95% dân số không biết viết, không biết đọc, chỉ trong vài tháng, nhiều người đã xóa được mù chữ, tự mình đọc được lá phiếu bầu đại biểu Quốc hội khóa I-Quốc hội đầu tiên của đất nước Việt Nam vào ngày 6/1/1946.
Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mang lại sự hồi sinh cho đất nước Việt Nam, mở ra thời kỳ rực rỡ huy hoàng nhất trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Kể từ cuộc Cách mạng Tháng Tám đến nay, dân tộc Việt Nam ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ vĩ đại đã lập nên biết bao kỳ tích có tính lịch sử. Theo đó, từ một vong quốc nô bước lên vũ đài của những dân tộc có quyền tự quyết, là tấm gương soi sáng, cổ vũ các dân tộc bị áp bức, đô hộ vùng lên giành quyền độc lập, tự do.
Cách đây 5 năm, trong dịp kỷ niệm 75 năm Quốc khánh nước ta, Tổng Thư ký Liên Hợp quốc Antonnio Guterres đã gửi lời chúc mừng Việt Nam và nhấn mạnh: “Việt Nam là hình mẫu của các nước đang phát triển, các nước vươn lên từ đói nghèo, từ đổ nát chiến tranh và ngày nay đã trở thành một nước có thu nhập trung bình”.
Và ngày nay, Việt Nam đang nỗ lực chuyển mình sang Kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải hiểu đúng giá trị của độc lập, tự do, hạnh phúc; biết trân trọng quá khứ, tin tưởng vào tương lai để ra sức thi đua phấn đấu, xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng giàu đẹp.