Giải pháp phát triển thị trường nông sản Việt Nam

ThS. Phạm Thị Minh Phương - Trường Đại học Hùng Vương

Năm 2023, ngành Nông nghiệp được Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 55 tỷ USD. Trong bối cảnh diễn biến kinh tế thế giới bất định tác động đến hoạt động thương mại và gây khó khăn cho thị trường về đầu ra đòi hỏi ngành Nông nghiệp phải chủ động nắm bắt biến động thị trường, có giải pháp linh hoạt ứng phó để đạt được mục tiêu đề ra. Nhận diện những thách thức đặt ra hiện nay, bài viết khuyến nghị giải pháp nhằm giúp Việt Nam duy trì thị trường nông sản phát triển ổn định, bền vững trong bối cảnh mới.

Tại thị trường nội địa, việc ký kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi đến các nhà phân phối bán lẻ lớn còn hạn chế.
Tại thị trường nội địa, việc ký kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi đến các nhà phân phối bán lẻ lớn còn hạn chế.

Thách thức đối với phát triển thị trường nông sản Việt Nam

Sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2021 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 7 (khoá X); gần 10 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững và gia tăng giá trị, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả tích cực.

Nông nghiệp phát triển khá toàn diện, duy trì tăng trưởng khá cao, chất lượng tăng trưởng ngày càng được cải thiện; Cơ cấu kinh tế cả nước tiếp tục chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP cả nước giảm từ 21,1% năm 2008, xuống 17,96% năm 2013, còn 14,68% năm 2018 và 14,85% năm 2020; năm 2021 khoảng 13,8%. Cơ cấu sản xuất nội ngành được điều chỉnh, chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước gắn với nhu cầu thị trường.

Xuất khẩu nông lâm, thuỷ sản trong bối cảnh hội nhập quốc tế tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng, góp phần giảm nhập siêu cho cả nước. Số liệu thống kê cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2008 - 2020 đạt 378,65 tỷ USD, (trung bình 29,08 tỷ USD/năm), tăng bình quân 8,17%/năm. Cán cân thương mại liên tục xuất siêu mặc dù thương mại chung của cả nước trong tình trạng nhập siêu. Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2021 đạt 48,6 tỷ USD (đạt mức cao nhất từ trước đến nay)…

Những kết quả trên góp phần nâng cao thu nhập và đời sống của nông dân, tuy nhiên, nguồn cung và chuỗi thị trường nông sản Việt Nam hiện nay đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể:

- Thay đổi môi trường địa kinh tế, địa chính trị thế giới

Trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược địa kinh tế, địa chính trị giữa Mỹ và các nước phương Tây với Trung Quốc, Nga ngày càng gia tăng; xung đột vũ trang Nga - Ukraina… đang gây ra hiệu ứng thúc đẩy các biện pháp theo xu hướng bảo hộ của nhiều nước, sẽ đặt ra những thách thức lớn đối với xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.

Thêm vào đó, bất ổn trong chính sách của các nước nhập khẩu tác động tới xuất khẩu nông sản Việt Nam. Trong những năm qua, các vụ kiện chống bán phá giá của Mỹ đối với các mặt hàng tôm và cá tra của Việt Nam; hay Liên minh châu Âu (EU) áp “Thẻ vàng” với hải sản nhập khẩu của Việt Nam vào EU; việc thay đổi chính sách quản lý thương mại biên giới của Trung Quốc tăng cường áp dụng các biện pháp về truy xuất nguồn gốc nông sản, siết chặt nhập tiểu ngạch, tạm nhập, tái xuất… gây nhiều khó khăn cho việc xuất khẩu nông sản của Việt Nam.

- Thương mại điện tử và kinh tế số tác động mạnh tới thương mại nông sản của Việt Nam

Những đổi mới kỹ thuật số đang định hình tương lai của thương mại nông sản thực phẩm. Trong thế giới ngày càng số hóa, có những cơ hội mới giúp cải thiện hiệu quả, tính minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc; tăng cơ hội thị trường cho các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa bằng cách kết nối nhà sản xuất với người tiêu dung; giảm rủi ro thanh toán và tăng khả năng tiếp cận tài trợ thương mại.

Việc điều chỉnh chứng chỉ thương mại kỹ thuật số có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại bằng cách loại bỏ chứng từ giấy, giảm gian lận và cho phép các thủ tục biên giới nhanh hơn, giúp giảm chi phí. Qua thu thập và theo dõi dữ liệu, công nghệ kỹ thuật số có thể giúp cải thiện việc tuân thủ các tiêu chuẩn và quy tắc xuất xứ an toàn thực phẩm, nâng cao khả năng truy xuất nguồn gốc…

Để ngành Nông nghiệp khai thác những lợi ích của công nghệ kỹ thuật số, cả Nhà nước và khu vực tư nhân phải nhanh chóng cập nhật khuôn khổ quy định, cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và hạ tầng pháp lý; khuyến khích các bên liên quan tham gia để tiếp thu công nghệ mới, phát triển năng lực để cải thiện kỹ năng kỹ thuật số ở cấp chính phủ và nông trại và thúc đẩy khả năng tương tác giữa hệ thống kế thừa và công nghệ mới.

Ngoài những vấn đề trên, thời gian tới, nguồn cung và chuỗi thị trường nông sản Việt Nam còn đối diện với những thách thức nội tại sau:

- Năng lực các chủ thể sản xuất, tiêu thụ nông sản:

Hoạt động kinh doanh nông sản vẫn chủ yếu do các thương nhân kinh doanh nhỏ lẻ (thương lái) thực hiện; hoạt động chủ yếu dựa trên kỹ năng và kinh nghiệm bản thân, kinh doanh nhỏ lẻ, khó quản lý... Những hạn chế này khiến người nông dân thường bị thương lái ép giá khi vào vụ thu hoạch hoặc giá nông sản ngoài thị trường bị đẩy lên, khi nguồn cung hạn chế cho việc tranh mua giữa các thương lái.

Doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh nông sản số lượng còn ít, do khó mua nông sản từ các hộ sản xuất phân tán và nguồn cung phần lớn phụ thuộc vào hệ thống thương lái hoạt động tự do, dẫn đến tình trạng nguồn hàng không ổn định, khó truy xuất nguồn ngốc và chất lượng sản phẩm không đồng đều.

Tỷ lệ vốn đầu tư của các doanh nghiệp vào khâu chế biến còn hạn chế, đang chú trọng vào buôn bán nguyên liệu thô, nên khó đáp ứng được thị trường tiêu thụ, làm giảm khả năng gia tăng giá trị hàng nông sản; giảm khả năng tiêu thụ một lượng cung lớn hàng nông sản trong giai đoạn ngắn nên khó giữa giá thu mua cho nông dân khi vào vụ thu hoạch rộ. Các doanh nghiệp chưa chú trọng tới tổ chức tiêu thụ sản phẩm nông sản trên thị trường nội địa đúng mức. Niềm tin người tiêu dùng đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm của các doanh nghiệp thu mua nông sản lớn còn rất thấp, nên việc tự tổ chức kênh bán lẻ nông sản của doanh nghiệp còn khó khăn.

Các hình thức liên kết giữa nông dân với các chủ thể khác trong tiêu thụ nông sản theo hình thức ký kết hợp đồng theo chuỗi còn chiếm tỷ lệ thấp; tỷ lệ phá vỡ hợp đồng ký kết trong chuỗi còn xảy ra phổ biến, việc tổ chức tiêu thụ nông sản tại thị trường bán lẻ bên ngoài còn gặp nhiều khó khan.

- Chất lượng hoạt động xuất khẩu nông sản:

Xuất khẩu nông lâm thuỷ sản trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn, do chất lượng nông lâm thủy sản chưa đáp ứng được yêu cầu thị trường, nhất là thị trường khó tính, các rào cản kỹ thuật thương mại được các nước dựng lên ngày càng nhiều, với yêu cầu ngày càng cao. Các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh do các nhà sản xuất tại các nước nhập khẩu đưa ra nhằm cản trở xuất khẩu nông lâm thủy sản của nước ta như các vụ kiện cá tra, tôm.

Xuất khẩu nông sản chủ yếu vẫn là các sản phẩm nông sản thô, chưa có sản phẩm nông sản mũi nhọn có giá trị gia tăng cao và thương hiệu mạnh. Do khâu chế biến, bảo quản của các doanh nghiệp thu mua xuất khẩu còn chưa đảm bảo, nên hàng nông sản Việt Nam thường có giá trị thấp, khả năng cạnh tranh về mẫu mã, chất lượng kém, vẫn có tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa chính các doanh nghiệp Việt, dẫn tới việc phải chịu các hình phạt từ các nước nhập khẩu.

- Phát triển thị trường nông sản trong nước:

Với số dân gần 100 triệu người, khả năng tiêu thụ các loại hàng hóa nông lâm thuỷ sản ở thị trường nội địa nước ta với nhiều phân khúc khác nhau là rất lớn. Tuy nhiên, hiện nay phát triển thương mại nông lâm thuỷ sản chủ yếu tập trung vào thị trường xuất khẩu, chưa quan tâm đúng mức tới thị trường trong nước.

Hình thức giao dịch nông lâm thuỷ sản phổ biến là mua bán tự do, giao hàng ngay. Hình thức mua bán giao dịch qua chợ đầu mối, trung tâm giao dịch còn hạn chế mà chủ yếu qua kênh truyền thống là các chợ. Tỷ lệ hàng hóa được giao dịch phân phối qua các cửa hàng hiện đại (siêu thị, trung tâm thương mại, của hàng tiện lợi) có xu hướng phát triển mạnh trong những năm gần đây, do có sự cạnh tranh của các hãng bán lẻ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, số lượng nông sản, chủng loại nông sản tiêu thụ qua kênh này còn chiếm tỷ lệ thấp và chủ yếu tập trung tại các đô thị lớn.

- Năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam:

Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp, tiêu chuẩn chất lượng chưa cao, chậm bắt kịp với các xu thế tiêu dùng mới, kiểu dáng công nghiệp và công nghệ quảng bá chưa tạo hiệu ứng cho người tiêu dùng. Cho tới nay, chỉ có rất ít thương hiệu và chỉ dẫn địa lý gắn với nông sản Việt Nam. Số lượng và chủng loại sản phẩm được bảo quản, chế biến còn thấp, chủ yếu là xuất thô hoặc sơ chế.

- Năng lực bảo quản, chế biến sản phẩm:

Đầu tư vào các khâu chế biến, bảo quản (cả về quy mô và công nghệ) của các doanh nghiệp thu mua nông sản còn rất hạn chế, làm giảm khả năng gia tăng giá trị hàng nông sản; giảm khả năng hấp thu một lượng cung lớn hàng nông sản trong giai đoạn ngắn nên khó giữ giá thu mua cho nông dân khi vào vụ thu hoạch rộ.

Các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đa phần có quy mô nhỏ, công nghệ và thiết bị lạc hậu. Hầu hết các doanh nghiệp đều sản xuất cái mình có mà chưa chủ động chế biến những sản phẩm theo nhu cầu của thị trường. Đã có một số doanh nghiệp nước ngoài hoặc liên doanh với nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực này, song số lượng còn ít. Sản phẩm chế biến có chất lượng chưa cao. Mẫu mã sản phẩm chậm đổi mới và chưa theo kịp những thay đổi của thị trường. Do chưa tiếp cận với thị trường bán lẻ nên chưa chú ý nhiều đến các phụ kiện kèm theo. Hầu như các sản phẩm, cũng như doanh nghiệp chế biến đều chưa có thương hiệu riêng.

- Tổ chức thu mua nông sản:

Doanh nghiệp tiêu thụ nông sản lớn không thể thu mua trực tiếp nông sản từ các hộ sản xuất phân tán, nguồn cung phần lớn phụ thuộc vào hệ thống thương lái hoạt động tự do; nguồn hàng không ổn định; khó truy xuất nguồn gốc; người nông dân thường bị ép giá vào vụ thu hoạch rộ hoặc giá nông sản ngoài thị trường bị đẩy lên cao bất hợp lý khi nguồn cung hạn chế do việc tranh mua giữa các thương lái.

Phân phối lợi ích trong chuỗi nông sản còn bất công bằng, người điều hành, quyết định chuỗi nông sản hiện nay chủ yếu là do thương lái, thành tố đang có vai trò quyết định trên thị trường nông sản chiếm giữ phần lớn lợi nhuận trong chuỗi nông sản, người nông dân bị phụ thuộc và là thành tố chịu nhiều thiệt thòi nhất.

- Tổ chức phân phối:

Tại thị trường nội địa, việc ký kết tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi đến các nhà phân phối bán lẻ lớn còn hạn chế, do chưa đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng và nguồn gốc xuất xứ. Mặc dù, hiện nay người tiêu dùng tại các khu vực đô thị có kinh phí và nhu cầu mua hàng nông sản thực phẩm an toàn, nhưng niềm tin của người tiêu dùng đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm của các doanh nghiệp thu mua nông sản còn rất thấp nên việc tổ chức kênh bán lẻ nông sản của doanh nghiệp là rất khó.

Đối với thị trường xuất khẩu, hàng nông sản Việt Nam thường có giá trị thấp, khả năng cạnh tranh về mẫu mã, chất lượng kém, vẫn còn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp Việt dẫn tới việc phải chịu hình phạt từ các nước nhập khẩu.

Triển vọng và đề xuất giải pháp

Triển vọng thương mại hàng nông sản thế giới

Thương mại nông sản thế giới được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng trong giai đoạn 2021-2030, mặc dù với tốc độ chậm hơn so với thập kỷ trước. Theo OECD/FAO (2020), thương mại nông sản được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức 1,2%/năm trong giai đoạn 2021- 2030. Cũng theo OECD/FAO (2020), thương mại toàn cầu hàng nông sản so với sản lượng sản xuất nông sản đã tăng dần theo thời gian, từ mức 15% năm 2000 lên 21% vào năm 2019 cho thấy, thương mại đang phát triển với tốc độ nhanh hơn sản xuất nông nghiệp nói chung.

Trong thập kỷ tới, tình hình thương mại thế giới đối với các mặt hàng nông sản được kỳ vọng sẽ tiếp tục phát triển dựa trên lợi thế so sánh của từng khu vực tùy thuộc vào sự sẵn có tương đối các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trên thị trường hàng nông sản thế giới thời gian tới, nhu cầu tiếp tục tăng là kết quả của việc tăng dân số và cải thiện thu nhập. Mặt khác, biến đổi khí hậu có thể làm tăng khả năng xảy ra các hiện tượng thời tiết cực đoan (ví dụ như hạn hán, lũ lụt), dịch bệnh, bệnh COVID-19 bùng phát trên thế giới; chiến tranh thương mại, xung đột vũ trang có thể làm thay đổi cán cân cung cầu nông sản và dẫn đến những biến động mạnh hơn về giá cả xung quanh xu hướng dài hạn.

Mức sống và thu nhập được cải thiện theo đà phát triển của kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi sẽ dẫn đến những thay đổi quan trọng trong cơ cấu nhu cầu đối với hàng nông sản theo hướng chuyển sang hàng có giá trị dinh dưỡng cao, chế biến sâu, an toàn và tốt cho sức khỏe, sản phẩm hữu cơ, sản phẩm xanh, sạch, thân thiện với môi trường, có trách nhiệm xã hội.

Nhu cầu được nâng cấp và đòi hỏi cao hơn về chất lượng, đa dạng về chủng loại, an toàn sức khỏe, dễ dàng truy xuất nguồn gốc, thân thiện môi trường… trong một phân khúc người tiêu dùng toàn cầu được mở rộng nhanh chóng (tầng lớp trung lưu). Thêm vào đó, người tiêu dùng yêu cầu cao ở các thị trường phát triển sẽ là động lực kích thích sản xuất nông nghiệp phát triển, hiện đại hóa để tạo ra giá trị mới cho hàng nông sản.

Một số giải pháp đề xuất

Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tư duy quản lý về phát triển thị trường nông sản; gắn hoàn thiện thể chế phát triển thị trường nông sản thực phẩm với hoàn thiện thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn, thể chế công thương và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách tạo khung pháp lý cho phát triển nhanh hạ tầng phát triển thị trường theo hướng văn minh, hiện đại, trọng tâm là hạ tầng kết nối thị trường các vùng, khu vực theo không gian lãnh thổ kinh tế, kết nối với thị trường các nước ASEAN trong một không gian thị trường thống nhất và kết nối với không gian thị trường các nước mà Việt Nam đã ký kết tham gia các FTA thế hệ mới.

Thứ ba, hoàn thiện chính sách khuyến khích các chủ thể trong nước phát triển nhanh hệ thống phân phối nông sản thực phẩm ở trong nước và các nước có lợi thế cạnh tranh.

Thứ tư, phát triển nhanh các thị trường ngành hàng chuyên ngành để vừa mở rộng thị trường vừa phát triển theo chiều sâu, kích thích sáng tạo sản phẩm cá biệt, vùng miền, đón bắt nhanh với xu hướng tiêu dùng mới, gắn chặt sản xuất với tiêu dùng.

Thứ năm, nghiên cứu, rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến phát triển thị trường trong nước và tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ với những quy định của các hiệp định kinh tế, thương mại thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, tham gia và cam kết thực hiện theo lộ trình…

Cùng với đó, hoàn thiện chính sách theo hướng khuyến khích phát triển sản xuất và chế biến nông sản để thu hút các nguồn lực xã hội vào đầu tư phát triển hạ tầng thương mại phục vụ kinh doanh nông sản. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; có chính sách khuyến khích các tổ chức khoa học công nghệ, các nhà khoa học tham gia nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm sản xuất giống, canh tác thông minh, chế biến nông sản, bảo quản, nâng cao giá trị nông sản và phân phối, tiêu thụ nông sản.

Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu tổ chức quản lý nhà nước về chất lượng vật tư nông nghiệp và an toàn vệ sinh thực phẩm phù hợp đối tượng và quy định quốc tế mà Việt Nam phải tham gia trong thời gian tới; đảm bảo kiểm soát chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm bảo vệ sức khỏe và lợi ích người tiêu dùng.

Nâng cao hiệu quả công tác thông tin và dự báo ngắn và trung hạn thị trường nông lâm thuỷ sản và vật tư nông nghiệp. Nghiên cứu và tư vấn về chiến lược và chính sách thương mại nông lâm thuỷ sản và vật tư nông nghiệp; Tăng cường xúc tiến thương mại nông lâm thuỷ sản và vật tư nông nghiệp; hợp tác quốc tế trong phát triển thương mại nông lâm thuỷ sản và vật tư nông nghiệp.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2020), Báo cáo Tổng kết thực hiện Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2020 và triển khai Kế hoạch năm 2021;
  2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2021), Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch tháng 8, 8 tháng đầu năm và nhiệm vụ công tác tháng 9/2021;
  3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2021), Báo cáo Tình hình thực hiện kế hoạch tháng 10, 10 tháng đầu năm và nhiệm vụ công tác tháng 11/2021;
  4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2021), Báo cáo Tổng kết thực hiện Kế hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn năm 2021 và triển khai kế hoạch năm 2022.