Giải pháp tăng cường tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam


Những năm gần đây, chính sách tín dụng phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta đã được hệ thống ngân hàng đẩy mạnh với mức tăng trưởng trung bình 20%/năm. Tuy nhiên, theo đánh giá của giới chuyên gia, các cơ chế, chính sách tín dụng cho lĩnh vực này hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân và chưa phát huy hiệu quả như kỳ vọng.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Từ thực tiễn triển khai các chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn, bài viết đề xuất một số khuyến nghị hướng đến sự phát triển bền vững cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Cơ chế, chính sách tín dụng phát triển lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (NNNT) được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ đầu những năm 1980, các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong phát triển nông nghiệp (Khoán 10, Khoán 100) đã giải phóng sức sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Cùng với việc thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trong phát triển kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam vươn lên thành một nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về phát triển NNNT, nông dân khẳng định vai trò và vị trí chiến lược của NNNT và nông dân, đồng thời xác định doanh nghiệp (DN) là động lực chính để tái cơ cấu nền nông nghiệp và chỉ rõ mục tiêu phát triển DN nông thôn, trong đó có DN đầu tư vào nông nghiệp.

Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách quan trọng để khuyến khích phát triển kinh tế NNNT, cụ thể như: Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển NNNT với nhiều ưu đãi như: Quy định mức cho vay không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, chủ trang trại, hợp tác xã từ 50 triệu đồng đến tối đa 3 tỷ đồng; Quy định riêng về chính sách tín dụng khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp theo mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao, theo đó, DN, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được vay không có tài sản bảo đảm đến 70-80% giá trị phương án, dự án sản xuất, kinh doanh, đồng thời được hưởng cơ chế xử lý khoản nợ (khoanh nợ, thậm chí xóa nợ) khi gặp rủi ro khó khăn trong việc trả nợ vay ngân hàng do nguyên nhân khách quan bất khả kháng…

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) ban hành Thông tư số 10/2015/TT-NHNN ngày 22/7/2015 hướng dẫn triển khai Nghị định số 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ, ban hành nhiều chính sách khuyến khích đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực NNNT, cụ thể như:

(i) Quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với lĩnh vực NNNT luôn thấp hơn 1%-2% so với lãi suất cho vay các lĩnh vực thông thường khác.

(ii) Thực hiện chính sách hỗ trợ về nguồn vốn nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng (TCTD) đẩy mạnh cho vay NNNT như: Tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD có tỷ lệ cho vay NNNT từ 40% trở lên.

(iii) Thực hiện các giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp như: Chỉ đạo các TCTD nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng để tăng cường khả năng cho vay không có tài sản bảo đảm nhằm tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm cho DN nông nghiệp; Đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, cắt giảm chi phí, tạo điều kiện cho DN và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả; Triển khai các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại đến địa bàn nông thôn như các dịch vụ thanh toán biên mậu, bảo lãnh vay vốn, mở thư tín dụng, nhờ thu…; Tiếp tục cho phép các TCTD cho vay đối với nhu cầu vốn thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu, tạo điều kiện cho các DN nông nghiệp xuất khẩu trong việc lựa chọn nguồn vốn vay với chi phí phù hợp.

(iv) Ngành Ngân hàng tích cực phối hợp với chính quyền địa phương các cấp triển khai Chương trình kết nối ngân hàng - DN trên toàn quốc nhằm đối thoại trực tiếp với DN, tìm hiểu khó khăn, từ đó có giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn cho DN, trong đó có DN nông nghiệp.

(v) Kịp thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng vay vốn bị thiệt hại do thiên tai như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, tiếp tục cho vay mới khôi phục sản xuất.

NHNN chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh triển khai một số chương trình, chính sách tín dụng đặc thù như:

- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC), nông nghiệp sạch: NHNN đã ban hành Quyết định số 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 chỉ đạo các ngân hàng thương mại (NHTM) cho vay đối với các khách hàng đáp ứng tiêu chí nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch theo quy định tại Quyết định số 738/QĐ-BNN-KHCN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) với lãi thấp hơn từ 0,5%/năm đến 1,5%/năm so với mức lãi suất cho vay thông thường.

- Cho vay hỗ trợ lãi suất đối với người dân, DN đóng mới, nâng cấp tàu phục vụ hai thác hải sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Lãi suất cho vay tối đa 7%/năm, ngân sách nhà nước hỗ trợ lãi suất vay vốn từ 4-6%/năm; thời hạn hỗ trợ lãi suất lên tới 16 năm đối tàu vỏ thép, vỏ vật liệu mới và 11 năm đối với tàu vỏ gỗ; chủ tàu được ân hạn trả gốc và lãi 1 năm.

- Cho vay giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Các DN, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân được ngân sách nhà nước (NSNN) hỗ trợ lãi suất vay vốn 100% trong hai năm đầu và 50% trong năm thứ ba để mua các máy móc thiết bị nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo danh mục Bộ NN&PTNT công bố.

- Cho vay hỗ trợ lãi suất đối với DN thu mua tạm trữ lúa, gạo tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong trường hợp giá thóc, gạo hàng hóa trên thị trường thấp hơn giá thóc, gạo định hướng khi vụ thu hoạch rộ; cho vay ưu đãi lãi suất, ân hạn lãi để hỗ trợ người dân, DN thực hiện tái canh cây cà phê tại khu vực Tây Nguyên...

Thực tế triển khai chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn

Tính đến cuối quý I/2018, dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực NNNT trong toàn hệ thống ngân hàng đạt 1.366.248 tỷ đồng, tăng 4,2% so với cuối năm 2017 và chiếm tỷ trọng khoảng 21% dư nợ tín dụng nền kinh tế. Trong tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực NNNT, dư nợ tín dụng đối với DN nông nghiệp đạt 488.746 tỷ đồng, chiếm 35,8%,tăng 3,41% so với cuối năm 2017.

Trong đó, để hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các DN về tài sản bảo đảm, các TCTD đã thực hiện cho vay không có tài sản bảo đảm đối với các DN uy tín, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, tình hình tài chính lành mạnh với tỷ trọng dư nợ tín dụng không có tài sản bảo đảm đối với DN chiếm 11%.

Việc triển khai các chương trình tín dụng thuộc lĩnh vực NNNT đạt kết quả tích cực, cụ thể: Chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch đạt dư nợ hơn 40 nghìn tỷ đồng với 16 nghìn khách hàng cá nhân và 273 khách hàng DN còn dư nợ.

Kết quả triển khai Nghị định số 67/2015/NĐ-CP giai đoạn 2015-2017 ghi nhận nhiều kết quả tích cực, các ngân hàng đã tích cực ký hợp đồng tín dụng đối với ngư dân để cho vay đóng mới, nâng cấp 1.168 tàu, chiếm 45,9% tổng số tàu cần đóng mới Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phân bổ cho các địa phương giai đoạn 2015-2020, với tổng số tiền cam kết cho vay đạt 11.704 tỷ đồng.

Chính sách cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp theo Quyết định số 68/2013/QĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ cũng đã tạo điều kiện cho người dân, DN có điều kiện đầu tư máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Doanh số cho vay lũy kế từ khi triển khai đạt trên 9.000 tỷ đồng, dư nợ đến cuối quý 1/2018 ước đạt 4.850 tỷ đồng với hơn 15.300 khách hàng còn dư nợ.

Nhìn chung, việc đẩy mạnh triển khai các chương trình tín dụng thời gian qua đã đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn phục vụ phát triển NNNT. Theo tính toán, giá trị đầu tư vào NNNT thời gian qua đã được cải thiện rõ rệt, 1 đồng vốn tín dụng đã góp phần tạo ra xấp xỉ 1,2 đồng giá trị sản xuất ngành nông, lâm, thủy sản. Tín dụng gia tăng đã góp phần đưa giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2017 tăng 2,9%, quý I/2018 tăng 4,05% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn mức tăng của quý I các năm 2011-2017).

Vốn tín dụng đã giúp người dân, DN có thêm nguồn lực đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, áp dụng cơ giới hóa, khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Chính sách hỗ trợ về nguồn vốn như ưu tiên trong tái cấp vốn và thực hiện giảm dự trữ bắt buộc đối với các TCTD có tỷ lệ đầu tư cho NNNT từ 40% trở lên cũng đã khuyến khích các TCTD tăng cường đầu tư vào lĩnh vực này, góp phần đưa tín dụng đối với lĩnh vực tăng đều hàng năm và cao hơn so với tăng trưởng tín dụng chung. Nhờ đó, nợ xấu trong lĩnh vực NNNT luôn thấp hơn so với tỷ lệ nợ xấu nền kinh tế.

Giải pháp tăng cường tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam - Ảnh 1

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai chính sách tín dụng đối với lĩnh vực NNNT còn có một số khó khăn, hạn chế như:

Một là, sản xuất nông nghiệp luôn tiềm ẩn rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, gây thiệt hại cho người dân, DN và ngân hàng cho vay; lĩnh vực xuất khẩu nông sản luôn phải đối mặt với rào cản thương mại ngày càng phức tạp, khắt khe như: Việc Mỹ áp dụng đạo luật Farmbill, EU tăng cường kiểm tra, giám sát chống khai thác thủy sản biển bất hợp pháp của Việt Nam…

Hai là, các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong nông nghiệp còn thiếu, vì vậy hiệu quả đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực này còn hạn chế.

Ba là, việc tổ chức sản xuất theo các mô hình liên kết vẫn bộc lộ hạn chế do khả năng hợp tác, liên kết của người dân còn yếu, vẫn còn xảy ra tình trạng dư thừa sản phẩm nông nghiệp ảnh hưởng tới thu nhập của người sản xuất. Ngoài ra, thời gian qua một số DN gặp khó khăn trong kinh doanh, chủ DN bỏ trốn hoặc bị cơ quan pháp luật bắt giữ, tạo tâm lý e ngại khi đầu tư vốn tín dụng, cũng như việc tích cực tham gia vào chuỗi giá trị của các bên liên quan.

Bốn là, việc sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC còn gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của TCTD như: Việc đầu tư nông nghiệp CNC đòi hỏi vốn lớn, trong khi các DN Việt Nam lại chưa có nguồn lực tài chính tốt; chưa có phương án sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC hiệu quả, phương án trả nợ vay cũng chưa thực sự khả thi… Số lượng các khu, vùng nông nghiệp ứng dụng CNC và số lượng DN nông nghiệp ứng dụng CNC được công nhận còn hạn chế (hiện nay chỉ có 3 khu, 1 vùng và 32 DN).

Các tiêu chí xác định dự án nông nghiệp ứng dụng CNC, nông nghiệp sạch theo quy định của Bộ NN&PTNT cũng còn chưa rõ ràng, chưa quy định cơ quan nào xác nhận các tiêu chí đó của dự án, gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách để cho vay...

Năm là, nhiều DN nông nghiệp chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi, vốn chủ sở hữu và năng lực tài chính còn hạn chế, công tác hạch toán kế toán thiếu chuyên nghiệp, thông tin tài chính thiếu minh bạch, thiếu tài sản đảm bảo dẫn đến khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các DN nông nghiệp còn hạn chế.

Tăng cường giải pháp thúc đẩy tín dụng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn

Trước những khó khăn, vướng mắc trên, NHNN đã xây dựng và tổ chức lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân về Dự thảo sửa đổi bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển NNNT theo hướng nâng mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với cá nhân, hộ gia đình, mở rộng đối tượng hưởng chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao.

Điều đáng lưu ý, Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định số 55/2015/NĐ-CP có tính đến các chương trình tín dụng đặc thù cho một số lĩnh vực và sản phẩm chủ lực của ngành Nông nghiệp, trong đó xem xét cho vay khu vực này không cần tài sản đảm bảo nhằm tạo động lực cho các DN ngành NNNT phát triển.

Cùng với việc hoàn thiện cơ chế, chính sách tín dụng đối với lĩnh vực NNNT, NHNN tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các công cụ điều hành chính sách tiền tệ (tái cấp vốn và giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc) nhằm hỗ trợ vốn cho các TCTD đẩy mạnh cho vay NNNT. Đồng thời, chỉ đạo các TCTD tập trung nguồn vốn đẩy mạnh cho vay NNNT nói chung và tích cực triển khai các chương trình tín dụng đặc thù như: Cho vay nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, cho vay hỗ trợ giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay lúa gạo, thủy sản; Thường xuyên phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trong việc triển khai các chương trình cho vay; Tích cực triển khai chương trình kết nối ngân hàng – DN để cùng với chính quyền các địa phương trực tiếp tháo gỡ đồng bộ những khó khăn, vướng mắc trong quan hệ tín dụng với khách hàng.

NHNN còn chủ động phối hợp với Bộ NN&PTNT, các địa phương đẩy mạnh triển khai chương trình cho vay khuyến khích nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, đặc biệt là việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản trên đất làm tài sản đảm bảo khi vay vốn tại TCTD, nâng cao khả năng tiếp cận vốn của DN; Tiếp tục chỉ đạo các TCTD nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng để tăng cường khả năng cho vay không có tài sản bảo đảm nhằm tháo gỡ khó khăn về tài sản bảo đảm cho DN nông nghiệp; Đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ tục hành chính không phù hợp, cắt giảm chi phí, tạo điều kiện cho DN và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.

Để triển khai hiệu quả các chính sách tín dụng hỗ trợ phát triển kinh tế lĩnh vực NNNT, NHNN đề xuất Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 55/2015/NĐ-CP nhằm đồng bộ chính sách hỗ trợ người dân, DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Đồng thời, NHNN khuyến nghị các bộ, ngành liên quan kịp thời triển khai và ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn và hoàn thiện chính sách về đất đai làm cơ sở mở rộng quy mô trong sản xuất nông nghiệp; Tiếp tục triển khai có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”; Nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Ban hành văn bản quy định về liên kết vùng, liên vùng trong phát triển sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp…

UBND các tỉnh, thành phố cũng cần đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất, thủ tục giao dịch bảo đảm và các thủ tục hành chính liên quan; Tích cực triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ DN quy định tại Luật Hỗ trợ DN nhỏ và vừa và hướng dẫn của các bộ, ngành Trung ương; Các hiệp hội, ngành hàng cần đẩy mạnh vai trò trong việc kết nối thông tin, xúc tiến thương mại, hỗ trợ người dân và DN nông nghiệp mở rộng thị trường trong và ngoài nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.

Tài liệu tham khảo:

  1. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân;
  2. Nghị quyết số 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ;
  3. Nghị định số 55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn;
  4. Thông tư 10/2015/TT-NHNN ngày 22/7/2015 hướng dẫn triển khai Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ;
  5. Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước về kết quả triển khai chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn.