Giải pháp tăng năng suất lao động để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng với sự cạnh tranh gay gắt, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, một trong những yêu cầu đặt ra là phải tăng năng suất lao động (NSLĐ).
Theo đó, NSLĐ động là yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Vì vậy, việc nâng cao NSLĐ là vấn đề sống còn đối với tất cả các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì nó đồng nghĩa với phát triển nhanh, bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình và đuổi kịp các nước trong khu vực.
Thực trạng NSLĐ Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, NSLĐ xã hội là một chỉ tiêu thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia (quy định trong Luật Thống kê), được tính bằng GDP bình quân trên một lao động đang làm việc trong năm. NSLĐ phản ánh năng lực tạo ra của cải, hiệu suất lao động cụ thể trong quá trình sản xuất, đo bằng số sản phẩm hay lượng giá trị tạo ra trong một đơn vị thời gian hay lượng thời gian lao động sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.
Hiện nay, trong 3 khu vực lớn của nền kinh tế, khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) luôn dẫn đầu về NSLĐ, khu vực kinh tế nhà nước (KTNN) đứng thứ hai và khu vực kinh tế ngoài nhà nước có NSLĐ thấp nhất. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2010, NSLĐ của khu vực kinh tế FDI đạt 186,23 triệu đồng/lao động, gấp 1,4 lần khu vực KTNN và gấp 8,6 lần khu vực ngoài nhà nước. Năm 2018, NSLĐ của khu vực kinh tế FDI đạt 225,12 triệu đồng/lao động gấp khoảng 1,3 lần khu vực KTNN và gấp 6,9 lần khu vực ngoài nhà nước.
Tuy nhiên, NSLĐ khu vực FDI tăng, giảm không ổn định và liên tục giảm từ năm 2016. NSLĐ của khu vực KTNN có xu hướng tăng dần, do đó khoảng cách về NSLĐ tuyệt đối với khu vực kinh tế FDI ngày càng thu hẹp. Những cải thiện đáng kể về NSLĐ của khu vực KTNN (từ mức 132,46 triệu đồng/lao động năm 2010 lên 175,37 triệu đồng/lao động năm 2018) đạt được là nhờ việc đẩy mạnh sắp xếp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và dựa vào ưu thế trong việc phân bổ nguồn lực, được ưu đãi hơn trong tiếp cận các nguồn lực sản xuất. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước có NSLĐ thấp.
Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân có NSLĐ đạt 44,58 triệu đồng/lao động, thấp hơn khu vực kinh tế tập thể, khu vực KTNN và khu vực kinh tế FDI, nhưng cao hơn so với khu vực kinh tế cá thể và mức NSLĐ tổng thể nền kinh tế. Khu vực kinh tế cá thể có mức NSLĐ thấp nhất, đạt 17,83 triệu đồng/lao động năm 2010 và tăng lên mức 27,52 triệu đồng/lao động năm 2018, chưa bằng 1/2 NSLĐ tổng thể. Tuy nhiên, đây là khu vực kinh tế quan trọng vì tạo ra hơn 70% việc làm của nền kinh tế. Dù được coi là một động lực quan trọng của nền kinh tế nhưng khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay phần lớn vẫn là DN nhỏ và siêu nhỏ nên gặp không ít khó khăn, thách thức trong việc nâng cao NSLĐ.
Xét ở góc độ kinh tế, NSLĐ của Việt Nam thời gian qua tiếp tục cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua các năm và là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao trong khu vực ASEAN. Với mức tăng trưởng kinh tế năm 2018 đạt 7,08%, NSLĐ toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 102,2 triệu đồng/lao động (tương đương 4.521 USD/lao động), cao hơn nhiều với mức 55,2 triệu đồng/lao động của năm 2011. Tính theo giá so sánh, NSLĐ nền kinh tế năm 2018 tăng 6% so với năm 2017 (bình quân giai đoạn 2016-2018 tăng 5,77%/năm), cao hơn so với mức tăng bình quân 4,35%/năm của giai đoạn 2011-2015, tính chung giai đoạn 2011-2018, NSLĐ tăng bình quân 4,88%/năm. NSLĐ ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Nếu như trong giai đoạn 2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân đạt 5,91%/năm, trong đó lao động tăng 1,5%/năm; tăng NSLĐ đạt 4,35%/năm, thì trong 3 năm (2016-2018), mặc dù lao động chỉ tăng 0,88%/năm, nhưng NSLĐ đạt tốc độ tăng bình quân 5,77%/năm, cao hơn giai đoạn trước 1,42 điểm phần trăm, nên GDP tăng trưởng bình quân đạt tốc độ 6,7%/năm.
Tính theo sức mua tương đương (PPP 2011), NSLĐ của Việt Nam giai đoạn 2011-2018 tăng bình quân 4,8%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của Singapore (1,4%/năm); Malaysia (2%/năm); Thái Lan (3,2%/năm); Indonesia 93,6%/năm); Phillipines (4,4%/năm). Từ thực tiễn sức mua cho thấy, Việt Nam đã thu hẹp được khoảng cách tương đối với các nước trong khu vực ASEAN có trình độ phát triển cao hơn. Nếu năm 2011 NSLĐ của Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Phillipines gấp NSLĐ của Việt Nam lần lượt 17,6 lần; 6,3 lần; 2,9 lần và 2,4 lần thì đến năm 2018 khoảng cách tương đối này giảm xuống mức tương ứng còn 13,7 lần; 5,3 lần; 2,7 lần và 2,2 lần.
Báo cáo của Tổng cục Thống kê cho thấy, NSLĐ của Việt Nam tăng đều qua các năm. Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng NSLĐ cao nhất trong khu vực ASEAN. Năm 2019, thu nhập bình quân đạt 110 triệu đồng/lao động và tăng tới 6,8% so với năm 2018.
Tính chung giai đoạn 2011-2018, NSLĐ tăng bình quân 4,88%/năm. Tuy nhiên, NSLĐ của Việt Nam hiện nay vẫn rất thấp so với một số nước trong khu vực, đáng chú ý là chênh lệch tuyệt đối vẫn tiếp tục gia tăng. Chênh lệch NSLĐ (tính theo PPP 2011) của Singapore và Việt Nam tăng từ 132.566 USD năm 2011 lên 141.276 USD năm 2018; Malaysia từ 42.397 USD lên 47.545 USD; Thái Lan từ 14.985 USD lên 18.973 USD; Indonesia từ 11.480 USD lên 13.707 USD; Phillipines từ 6.171 USD lên 8.776 USD. Điều này cho thấy, nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với thách thức lớn để có thể bắt kịp mức NSLĐ của các nước.
Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhưng NSLĐ của Việt Nam còn có những hạn chế. Cụ thể:
Thứ nhất, các DN khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất, tiếp cận tín dụng chính thức hạn chế, thiếu lao động có kỹ năng, khó tham gia, học hỏi từ chuỗi giá trị do các DN FDI dẫn dắt, hòa nhập chậm chạp vào chuỗi giá trị toàn cầu…
Thứ hai, việc khó tiếp cận và ứng dụng công nghệ vào sản xuất tạo áp lực cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và thế giới. Đến nay, NSLĐ của Việt Nam vẫn thấp hơn hầu hết các nước khu vực ASEAN. Đơn cử như: Singapore có NSLĐ cao gấp 13,7 lần Việt Nam; Malaysia cao gấp 5,3 lần; Thái Lan cao gấp 2,7 lần... Việt Nam chỉ đứng trên Campuchia trong ASEAN về NSLĐ.
Thứ ba, các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những ngành dịch vụ mang tính chất động lực hay huyết mạch của nền kinh tế như: tài chính, ngân hàng, du lịch còn chiếm tỷ trọng thấp. Mặc dù, công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn dắt tăng trưởng NSLĐ, nhưng tập trung cao ở những sản phẩm xuất khẩu dựa trên nền tảng công nghệ thấp đến trung bình.
Thứ tư, hiện nay, phần lớn DN Việt Nam là DN vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn hạn hẹp, khả năng đầu tư công nghệ hạn chế, kinh nghiệm quản lý sản xuất yếu và kém năng lực cạnh tranh, trình độ khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo còn thấp, nhiều DN đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu, tụt hậu 2 - 3 thế hệ so với mức trung bình của thế giới.
Thứ năm, trình độ công nghệ của DN còn lạc hậu, DN tham gia các hoạt động liên quan đến sáng tạo còn hạn chế. Qua nghiên cứu cho thấy, những DN có hoạt động nghiên cứu và phát triển có NSLĐ cao hơn 19,3% so với các DN còn lại. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ DN chi cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển ở Việt Nam còn thấp.
Giải pháp tăng NSLĐ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cạnh tranh gay gắt, cải thiện và thúc đẩy tăng NSLĐ là yếu tố quyết định tới năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Đây là vấn đề sống còn đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Để tăng NSLĐ, thời gian tới cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, phát động phong trào tăng năng suất trong tất cả các khu vực của nền kinh tế; chọn một số lĩnh vực (may mặc, sản xuất máy móc thiết bị, điện tử), một số địa phương thực hiện thí điểm Chương trình thúc đẩy tăng NSLĐ, từ đó nhân rộng ra toàn nền kinh tế. Nâng cao năng suất, chất lượng thông qua ứng dụng các công nghệ quản lý tiên tiến trên thế giới có điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù và văn hóa của DN Việt Nam; đẩy mạnh ứng dụng điện toán đám mây nhằm cắt giảm chi phí, tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN…
Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp thực tế, gắn với thị trường và thích nghi biến đổi khí hậu; Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học, nhất là công nghệ sinh học, phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp; Thu hút DN đầu tư vào địa bàn nông thôn để chuyển đổi từ lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ có năng suất cao hơn.
Đồng thời, tập trung phát triển sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao, tự động hóa, giảm dần các ngành sử dụng nhiều tài nguyên, khoáng sản và lao động giản đơn. Đẩy mạnh phát triển ngành Công nghiệp chế biến, chế tạo và dịch vụ nhằm chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ có giá trị cao; chuyển dịch trong nội bộ ngành công nghiệp từ sản xuất dựa vào lao động sang dựa vào công nghệ, hàng hóa có giá trị gia tăng cao.
Ba là, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, liên kết với các tập đoàn nước ngoài; Tạo điều kiện cho các DN công nghệ phát triển sản phẩm mới, tham gia đấu thầu mua sắm công, tạo thị trường hỗ trợ phát triển.
Bốn là, đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động đầu tư cho khoa học công nghệ; phát triển đầy đủ thị trường khoa học và công nghệ và tăng cường hiệu quả hoạt động các chợ công nghệ, chuyển giao công nghệ.
Năm là, nền kinh tế đứng vững, phát triển thành công trong xu thế vận hành của Cách mạng công nghiệp 4.0 phụ thuộc nhiều vào chất lượng nguồn nhân lực và đội ngũ lao động có trình độ, đổi mới sáng tạo, đưa ra ý tưởng mới. Để tăng NSLĐ cần giảm nhanh số lao động giản đơn, gia tăng số lao động có trình độ, tay nghề phù hợp bằng cách đổi mới phương thức, chương trình đào tạo, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, dạy nghề theo hướng hiện đại, đáp ứng nhu cầu xã hội và hội nhập quốc tế, trong đó tập trung đào tạo đội ngũ thực hành giỏi.
Mới đây, tại Chỉ thị số 07/CT-TTg về giải pháp thúc đẩy tăng NSLĐ quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông đẩy nhanh hoàn thiện thể chế xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử; đôn đốc khẩn trương hoàn thành các cơ sở dữ liệu quốc gia cần ưu tiên triển khai; thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia để tăng NSLĐ, phát triển kinh tế - xã hội... Trong đó, Thủ tướng yêu cầu thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện các hoạt động của DN, các ngành trọng điểm, các cơ quan nhà nước và người dân, đồng thời phát triển các yếu tố nền tảng tạo điều kiện cho chuyển đổi số quốc gia.
Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2020), Chỉ thị số 07/CT-TTg về giải pháp thúc đẩy tăng NSLĐ quốc gia;
2. Tổng cục Thống kê (2016), Báo cáo NSLĐ Việt Nam;
3. Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo điều tra lao động việc làm;
4. Viện Năng suất Việt Nam (2017), Báo cáo năng suất Việt Nam;
5. Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia (2017), Tài liệu hội thảo quốc tế “Năng suất và đổi mới sáng tạo của nền kinh tế Việt Nam: Phát hiện từ nghiên cứu thực chứng”;
6. Tài liệu Diễn đàn Nâng cao NSLĐ, đòn bẩy tăng trưởng kinh tế (tháng 4/2018).