Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng tại TP. Hồ Chí Minh
(Tài chính) Quán triệt Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ và Thông điệp của Thủ tướng Chính phủ, năm 2014 và những năm tới, TP. Hồ Chí Minh xác định, một mặt phải khắc phục ngay những hạn chế, yếu kém; mặt khác, tập trung chỉ đạo với quyết tâm chính trị cao để thực hiện tốt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế Thành phố.
Chuyển dịch cơ cấu và những tồn tại
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được Đại hội Đảng bộ TP. Hồ Chí Minh lần thứ VIII (giai đoạn 2006 - 2010) xác định là 1 trong 5 chương trình trọng tâm. Qua triển khai thực hiện, chương trình đã góp phần thúc đẩy việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố tích cực và đúng định hướng.
Cụ thể, trong giai đoạn này, mặc dù phải đối phó với tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng với sự cải thiện mạnh mẽ trên địa bàn, tăng trưởng bình quân của Thành phố vẫn đạt 11%/ năm... Qua đó, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006 - 2010, đưa Việt Nam thoát khỏi tình trạng quốc gia có thu nhập thấp và đứng trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người trung bình của thế giới.
Giai đoạn 2011 - 2013, trước bối cảnh kinh tế thế giới liên tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro, Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa IX tiếp tục xác định hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011 - 2015 là 1 trong 6 chương trình đột phá. Theo đó, cơ cấu kinh tế tiếp tục tăng dần tỷ trọng các ngành dịch vụ chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, có lợi thế cạnh tranh là 9 nhóm ngành dịch vụ chủ yếu có tiềm năng, thế mạnh của Thành phố (tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, du lịch, bưu chính - viễn thông, vận tải - cảng - kho bãi, khoa học - công nghệ, giáo dục và y tế); Kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ổn định, từng bước phát triển, đóng góp GDP ngày càng lớn...
Đến nay, Thành phố đã triển khai thực hiện 57/72 chương trình, đề án chuyển dịch cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng, qua đó góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng khoa học cao. Năm 2013, tỷ trọng khu vực dịch vụ đã chiếm tới 58,4% trong tổng GDP của Thành phố.
Bên cạnh những kết quả trên, TP. Hồ Chí Minh đang đứng trước không ít những tồn tại và khó khăn. Đó là, các chính sách, giải pháp hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện vẫn chưa đủ mạnh, chưa tạo được sự đột phá; Tình trạng kéo dài sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa theo chiều rộng; Sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế chậm; Hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh chưa cao; Tỷ trọng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, giá trị gia tăng cao của thành phố còn thấp, tính cạnh tranh của nhiều sản phẩm còn khá yếu so với khu vực và quốc tế.
Bên cạnh đó, còn lúng túng trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế trên địa bàn, nhất là kinh tế đô thị. Trong đó, có những hạn chế do chính sách kinh tế vĩ mô thời gian qua chưa có tác động tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cạnh tranh, nhất là các chính sách định hướng cho doanh nghiệp (DN) chuyển từ gia công sang sản xuất...
Nguyên nhân thì có nhiều song nguyên nhân chủ yếu vẫn là do nhiều cơ chế, chính sách chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển của Thành phố và chưa tạo điều kiện phát huy hết tiềm năng, lợi thế của một đô thị đặc biệt (quy mô dân số lên đến 10 triệu dân và là vùng kinh tế trọng điểm, năng động nhất cả nước). Trong khi, năng suất của nền kinh tế Thành phố còn thấp, trình độ công nghệ sản xuất của DN còn ở mức trung bình và chậm đổi mới, vốn sản xuất ít, phần lớn phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng, rất dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động của nền kinh tế.
Công nghiệp hỗ trợ thì chậm phát triển, sản xuất phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu nhập khẩu. Hạ tầng phục vụ cho phát triển lại ngày càng quá tải, bất cập, cản trở việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng. Công tác quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền mặc dù được đánh giá là năng động nhưng vẫn chưa theo kịp sự phát triển và chưa đáp ứng được yêu cầu trong giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
5 giải pháp đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu
Quán triệt Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ và Thông điệp đầu năm mới 2014 của Thủ tướng Chính phủ, thời gian tới Thành phố sẽ thực hiện đồng bộ 3 đột phá chiến lược gắn với 6 chương trình đột phá đã đề ra. TP. Hồ Chí Minh cũng phấn đấu đạt tốc độ GDP bình quân hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước và đến năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt 4.800 USD... Cụ thể :
Thứ nhất, cần đổi mới tư duy về chức năng quản lý kinh tế của nhà nước thông qua việc sử dụng công cụ kế hoạch hóa phù hợp với sự vận hành của cơ chế thị trường.
Đổi mới công tác kế hoạch và quy hoạch thực chất là xác định lại vai trò của Nhà nước trong suốt quá trình dẫn dắt thị trường phát triển theo mục tiêu. Do đó, một trong các nhiệm vụ quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch là chỉ dẫn và dự báo các nhân tố ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển nhằm định hướng hoạt động cho DN. Về các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, cần tập trung vào các chỉ tiêu phát triển bền vững như các chỉ tiêu về an sinh xã hội, môi trường...
Chính sách hỗ trợ cho DN cũng cần kiên trì thực hiện theo nguyên tắc: Nhà nước sử dụng các chính sách, biện pháp và công cụ để tác động vào thị trường theo định hướng của nhà nước; Chính thị trường sẽ tác động và sự định hướng đầu tư của DN (trên cơ sở quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh), chứ Nhà nước không ''cầm tay chỉ việc" cho DN. Trên cơ sở đó, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc sử dụng các công cụ hỗ trợ thị trường.
Thứ hai, sử dụng hiệu quả công cụ chính sách kinh tế - tài chính để thúc đẩy quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tái cấu trúc nội bộ các ngành kinh tế.
Sự đổi mới quyết liệt các chính sách về thuế, phí, đất đai, đầu tư công, cung ứng dịch vụ công sẽ khuyến khích có điều kiện, thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa các DN tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm và hình thành những ''cụm liên kết sản xuất”, góp phần giúp chuyển nền công nghiệp từ gia công sang sản xuất. Kinh nghiệm của quốc tế cũng đã cho thấy, việc chuyển nền kinh tế từ giai đoạn gia công sang giai đoạn sản xuất là sử dụng linh hoạt và hiệu quả chính sách thuế để định hướng đầu tư cho DN. Trong những năm qua, Hồ Chí Minh tuy đã có một số kinh nghiệm về hỗ trợ DN chuyển dịch hướng đầu tư kinh doanh thông qua các chính sách sử dụng đất, hỗ trợ tín dụng... có hiệu quả nhưng vẫn còn hạn chế chính sách chung ở tầm vĩ mô.
Chính vì vậy, ngoài các giải pháp vĩ mô, Thành phố cần đẩy mạnh rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh; Tăng cường hỗ trợ cho các DN, nhất là DN nhỏ và vừa về đầu tư, xúc tiến thương mại và các chính sách hỗ trợ DN khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Đồng thời, đẩy nhanh việc tái cơ cấu và cổ phần hóa các DN nhà nước để tập trung nguồn vốn vào các ngành nghề có lợi thế, nhất là 9 nhóm ngành dịch vụ thế mạnh và 4 nhóm ngành công nghiệp trọng yếu. Ngoài ra, Thành phố cần kiến nghị điều chỉnh các quy định về một số cơ chế tài chính, ngân sách đặc thù đối với TP. Hồ Chí Minh theo hướng tạo điều kiện cho Thành phố chủ động trong huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển.
Thứ ba, sử dụng các tổ chức kinh tế của Nhà nước như công cụ để khắc phục và hạn chế những khuyết tật của thị trường.
TP. Hồ Chí Minh phấn đấu đạt tốc độ GDP bình quân hàng năm cao hơn 1,5 lần mức tăng trưởng bình quân của cả nước và đến năm 2015, GDP bình quân đầu người đạt 4.800 USD...
Mô hình kinh tế thị trường luôn luôn tồn tại những khuyết tật cố hữu, gắn liền với bản chất của nó mà chúng ta thường gọi là mặt trái của thị trường. Năng lực quản trị có hiệu quả của Nhà nước thể hiện ở khả năng sử dụng các công cụ để hạn chế những hệ quả tiêu cực do các “khuyết tật” đó gây ra. Như vậy, vấn đề cải cách ở đây là sự can thiệp vào thị trường bằng sức mạnh vật chất của Nhà nước. Đặc biệt là tập trung ''tái cấu trúc'' lực lượng DNNN, để làm tốt vai trò tham gia điều tiết thị trường, cung cấp các loại “hàng hóa và dịch vụ công cộng” phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
Hiện có những lĩnh vực cần sự can thiệp mạnh của lực lượng kinh tế nhà nước như cung cấp hàng hóa và dịch vụ công cộng; Các ngành kinh tế có hiệu quả sinh lời thấp, nhưng cần thiết cho quá trình công nghiệp hóa như cơ khí chế tạo, công nghiệp phụ trợ, đầu tư cho thị trường bất động sản sơ cấp, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghiệp công nghiệp cao… Quan trọng hơn, Nhà nước cần phải thể hiện quyết tâm chính trị trong đầu tư phát triền, không phải để mặc DNNN tự cân nhắc hiệu quả tài chính đơn thuần.
Thứ tư, chuyển từ cơ cấu kinh tế địa phương sang cơ cấu kinh tế vùng.
Trong giai đoạn tồn tại nền kinh tế kế hoạch hóa, nhiều tỉnh đã từng được mở rộng về quy mô diện tích để xây dựng thành những nền kinh tế có cơ cấu hoàn chỉnh (công - nông nghiệp) nhưng khi chuyển qua kinh tế thị trường, tư duy cơ cấu kinh tế tỉnh vẫn không thay đổi cho dù nhiều tỉnh đã được chia tách. Thậm chí là vẫn chưa có chính sách và cơ chế vận hành để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng.
Tình trạng trên đã dẫn đến sự phân tán nguồn lực sản xuất quốc gia; Đầu tư công và cả đầu tư tư nhân cũng bị dàn trải; Các vùng kinh tế trọng điểm không có được sức mạnh của liên kết vùng. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng cần có cái nhìn ở quy mô nền kinh tế quốc gia và các vùng kinh tế, để từ đó có sự liên kết về chức năng kinh tế của chính quyền địa phương.
Thực tiễn cho thấy, TP. Hồ Chí Minh đã và đang là ''hạt nhân” trong mối quan hệ ''mang tính cơ cấu'' của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, nếu có chính sách thúc đẩy và cơ chế điều hành phù hợp sẽ nâng cao được chất lượng tăng trưởng kinh tế và phát triển đô thị bền vững cho cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đồng thời cũng tạo động lực cho sự phát triển của cả miền Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long.
Thời gian tới Thành phố cần chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, ngành và các tỉnh trong khu vực và thực hiện thống nhất quy hoạch, tạo sự đồng bộ trong phát triển kết cấu hạ tầng; Xây dựng những cơ chế, chính sách đầu tư chung để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn vùng, trong đó phát triển những vùng nguyên liệu, công nghiệp hỗ trợ kết nối, đưa TP. Hồ Chí Minh trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao với các vệ tinh cung cấp là các tỉnh, thành lân cận.
Thứ năm, đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền đô thị trong khuôn khổ tổ chức hệ thống chính quyển địa phương theo phương thức mở rộng tính tự chủ và chịu trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao.
Để nâng cao hiệu năng quản lý nhà nước của chính quyền địa phương về phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, đặc biệt là quản lý đô thị đối với các đô thị trong hệ thống tổ chức chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan chuyên ngành cần phải đổ mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương theo hướng: Nhiệm vụ của cấp nào thì cấp đó chịu trách nhiệm, có thẩm quyền đầy đủ tự quyết, tự quản đối với công việc được giao; không trùng lắp nhiệm vụ do Trung ương giao và công việc giữa các cấp chính quyền… nhằm tránh sự đùn đẩy trách nhiệm, chồng chéo.
Khi đã tạo sự chủ động cho chính quyền cấp dưới, nhiệm vụ chính yếu của chính quyển cấp trên là ban hành các quy định và kiểm tra giám sát việc tuân thủ các quy định của cấp dưới. Đây là điểm khác biệt căn bản giữa mô hình phân cấp hiện hành với mô hình tăng tính tự chủ của chính quyền địa phương. Việc phân cấp cần dựa trên nguyên tắc thống nhất của nền hành chính quốc gia, bảo đảm tính chất của một Nhà nước đơn nhất, nhưng phải đề cao tính tự chủ của địa phương trên nền tảng lợi thế so sánh, năng lực cạnh tranh của các địa phương, các vùng kinh tế và các đô thị.
Để thích ứng với đặc điểm của cơ chế thị trường và mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, xu hướng chung của thế giới là mở rộng quyền tự quản về ngân sách và cung cấp dịch vụ đô thị của chính quyền các đô thị. Do đó, cần nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan, tổ chức chính quyền địa phương các cấp, trong đó có chính quyền đô thị theo hướng làm rõ mô hình tổ chức chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo đã được đề ra.
Với sự quyết tâm cao, nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chung tay của cộng đồng DN và các tầng lớp nhân dân, năm 2014 và các năm tiếp theo chắc chắn Thành phố sẽ hoàn thành tốt nhất những mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ IX đề ra, xây dựng Thành phố văn minh, hiện đại, từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – công nghệ của cả nước và trong khu vực như nhiệm vụ mà Bộ Chính trị đặt ra cho Thành phố trong Nghị quyết 16.
__________________
Tài liệu tham khảo:
1. TP. Hồ Chí Minh phải là đầu tàu trong tái cơ cấu kinh tế - http://www.sggp. org.vn;
2. Cơ cấu kinh tế của TP. Hồ Chí Minh chuyển dịch tích cực - http://www. vietnamplus.vn;
3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đột phá từ cơ chế chính sách - http:// muasamcong.vn;
4. Cần nhiều "cú hích" cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế - http://www.ahtp. com.vn.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số 3 – 2014