Hoàn thiện chính sách tài chính phát triển thị trường khoa học công nghệ ở Việt Nam
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành các cơ chế, chính sách và đưa ra nhiều giải pháp trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, có giải pháp về phát triển thị trường khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, để hỗ trợ thị trường này phát triển thì từ nay đến năm 2020 cần khoảng từ 3-5 tỷ USD đầu tư cho nghiên cứu khoa học mỗi năm. Đây là một thách thức lớn, bởi nguồn lực ngân sách đầu tư cho lĩnh vực này còn hạn hẹp. Bài viết phân tích các chính sách huy động vốn cho nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, đưa ra một số khuyến nghị nhằm cải thiện hiệu quả các công cụ tài chính, hỗ trợ thị trường khoa học và công nghệ phát triển.
Chính sách tài chính cho phát triển thị trường khoa học và công nghệ
Ngày 8/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2075/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển thị trường khoa học và công nghệ (KHCN) tại Việt Nam đến năm 2020. Phát triển thị trường KHCN là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường và là một trong những nội dung trọng tâm của chiến lược phát triển của mỗi quốc gia.
Thị trường KHCN có 5 yếu tố cơ bản để hình thành bao gồm: Khung pháp lý cho các giao dịch trên thị trường, bên mua, bên bán, cơ sở hình thành giá cả và các hoạt động hỗ trợ dịch vụ xúc tác giữa người mua và người bán.
Chính sách phát triển thị trường KHCN là chính sách công do Nhà nước ban hành, đó là những hành động ứng xử của Nhà nước với những vấn đề phát sinh trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường KHCN, bao gồm hệ thống các chính sách hướng tới mục tiêu tạo động lực khuyến khích thị trường KHCN phát triển thỏa mãn nhu cầu KHCN trình độ cao của nhân dân và yêu cầu phát triển đất nước. Chính sách tài chính cũng nằm trong hệ thống các chính sách được Nhà nước ban hành để thực hiện mục tiêu này.
Chính sách tài chính cho thị trường KHCN là chính sách của Nhà nước nhằm huy động, quản lý và sử dụng tiền tệ để phát triển thị trường KHCN theo các mục tiêu và định hướng phát triển của Nhà nước đặt ra. Nhà nước ban hành chính sách tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia đóng góp các nguồn tài chính cho phát triển thị trường KHCN, đồng thời, tạo cơ chế tài chính hợp lý cho thị trường KHCN, đảm bảo chất lượng và hiệu quả phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của quốc gia.
Tác động của các công cụ tài chính đến thị trường khoa học và công nghệ
Về cơ bản, tài chính có hai chức năng cụ thể như phân phối và kiểm tra giám sát. Hai chức năng này có tác dụng tích cực trong việc kích thích nền kinh tế phát triển, góp phần khơi dậy và giải phóng nguồn lực trong xã hội, nâng cao hiệu quả mọi hoạt động KT-XH. Để thực hiện hai chức năng trên, người ta thường phải sử dụng đến các công cụ tài chính để tác động đến đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu KT-XH đã định trước. Các công cụ tài chính phổ biến gồm:
Thứ nhất, về chi ngân sách nhà nước (NSNN): Việc phân phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Đây là công cụ tài chính cơ bản được sử dụng để phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước cho từng hoạt động, thuộc chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Thông qua chi NSNN, Nhà nước cung cấp kinh phí để đầu tư cho các lĩnh vực, trong đó có chi đầu tư để phát triển nghiên cứu khoa học (NCKH) cũng như thị trường KHCN. Chi NSNN có tác động lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của lĩnh vực này, cụ thể gồm:
- Chi NSNN đầu tư cho thị trường công nghệ được chú trọng vào lĩnh vực trọng điểm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật và đầu tư có chiều sâu cho hoạt động nghiên cứu và phát triển, thực hiện nghiên cứu ứng dụng nhằm cung cấp sản phẩm công nghệ cho thị trường.
- Chi NSNN tác động trực tiếp đến hoạt động của tổ chức KHCN công lập để nghiên cứu tạo ra sản phẩm công nghệ, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước cấp kinh phí cho các tổ chức KHCN công lập để “đặt hàng” mua hàng hóa, dịch vụ (thông qua đơn đặt hàng) nhằm phục vụ lợi ích công cộng của Nhà nước.
- Chi NSNN tập trung vào việc tạo môi trường để thúc đẩy hoạt động sáng tạo và đổi mới công nghệ; thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (SHTT), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức tham gia vào thị trường công nghệ; chi đầu tư cho đề tài, đề án, chương trình thiết thực liên quan đến phát triển thị trường công nghệ; xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao...
- Thông qua công cụ chi NSNN để thực hiện tổ chức hoạt động xúc tiến thị trường công nghệ, tổ chức “chợ công nghệ” để tăng giá trị giao dịch mua bán các sản phẩm, dịch vụ KHCN.
Như vậy, chi NSNN tác động đến việc thúc đẩy tăng nguồn cung, nhu cầu công nghệ, tăng sự gắn kết cung - cầu công nghệ cũng như việc chuyển giao công nghệ trên thị trường.
Thứ hai, về thuế: Thuế là công cụ tài chính được Nhà nước sử dụng để huy động một phần của cải xã hội từ các chủ thể KT-XH hội khác vào trong tay Nhà nước. Thông qua các chính sách thuế áp dụng sẽ có tác động khuyến khích hoặc hạn chế các chủ thể KT-XH đầu tư phát triển cho các hoạt động liên quan. Chính vì vậy, công cụ thuế sẽ tác động mạnh đến việc khuyến khích hay hạn chế sự phát triển của thị trường KHCN. Một số tác động của công cụ này cần phải đề cập tới như:
- Thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp (DN), tổ chức KHCN; tác động đến các lĩnh vực như sở hữu trí tuệ; chuyển giao công nghệ; các dịch vụ về thông tin, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng; phổ biến, ứng dụng thành tựu KHCN trong các lĩnh vực KT - XH. Việc miễn, giảm thuế đúng đắn đối với thị trường công nghệ thông qua việc tạo cung, kích cầu và tạo môi trường lành mạnh, góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường công nghệ.
- Các hình thức ưu đãi thuế đối với thị trường công nghệ gồm: Ưu đãi thông qua thuế suất; Áp dụng các quy định làm giảm căn cứ tính thuế; Áp dụng chế độ miễn giảm thuế. Khi áp dụng các hình thức ưu đãi về thuế thực chất là hình thức cấp phát vốn gián tiếp cho các DN, tổ chức KHCN, tạo điều kiện cho các DN, tổ chức KHCN có thêm vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ (tạo cung) hoặc để mua sắm công nghệ mới (kích cầu).
Ngoài ra, luận án đã phân tích rõ tác động của từng sắc thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế xuất nhập khẩu đến việc phát triển từng yếu tố của thị trường công nghệ.
Thứ ba, về tín dụng: Một bên cho vay cung cấp nguồn tài chính cho bên đi vay, trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho bên cho vay trong một thời hạn thỏa thuận và thường kèm theo một khoản tiền lãi. Bản chất của tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu về vốn tạm thời của chủ thể, để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh và theo nguyên tắc hoàn trả, trong đó có việc cung cấp tài chính để phát triển thị trường KHCN, thể hiện như sau:
- Tín dụng có thể đáp ứng nhu cầu về vốn kịp thời cho các cho các tổ chức, cá nhân, DN phát triển công nghệ cung ứng trên thị trường.
- Việc sử dụng nguồn vốn tín dụng thông thường phải qua quá trình thẩm định. Vì thế, các DN, tổ chức KHCN phải sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả để phát triển thị trường KHCN.
- Chính sách lãi suất tín dụng là công cụ quan trọng khuyến khích các DN, tổ chức KHCN và cá nhân tính toán, nghiên cứu kỹ lưỡng về việc quyết định vay vốn nhiều hay ít, thời hạn vay và hoàn trả đúng theo hợp đồng tín dụng.
Thứ tư, các quỹ đầu tư KHCN: Trong nền kinh tế thị trường, quỹ đầu tư được xem là một định chế tài chính trung gian phi ngân hàng nhằm thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn khác nhau để đầu tư vào nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau, đảm bảo lợi ích cho cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư.
Các quỹ KHCN là một trong những quỹ đầu tư chuyên sâu cho lĩnh vực KHCN trong đó có phát triển thị trường KHCN. Hiện nay, Việt Nam có 5 quỹ KHCN liên quan đến phát triển các yếu tố của thị trường công nghệ, gồm các quỹ: Quỹ Phát triển KHCN Quốc gia (NAFOSTED); Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia (NATIF); Quỹ Phát triển KHCN cấp bộ, tỉnh, thành phố; Quỹ Phát triển KHCN của DN; Quỹ Khởi nghiệp DN KHCN Việt Nam (VSF).
Thực trạng các kênh huy động vốn cho phát triển thị trường khoa học, công nghệ
Ngày 17/10/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/2014/NĐ-CP quy định về đầu tư và cơ chế tài chính đối với hoạt động KHCN. Những điểm mới về chính sách tài chính cho phát triển KHCN được quy định bổ sung tại Nghị định như: Áp dụng cơ chế khoán chi đến sản phẩm cuối cùng; Cấp kinh phí thực hiện nhiệm vụ KHCN sử dụng NSNN thông qua hệ thống Quỹ Phát triển KHCN; Buộc DN nhà nước hàng năm phải trích từ 3% - 10% thu nhập tính thuế thu nhập DN để lập Quỹ Phát triển KHCN của DN.
Nghị định 95/2014/NĐ-CP nêu rõ, chi phát triển tiềm lực KHCN, đầu tư và hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các tổ chức KHCN, không phân biệt thành phần kinh tế theo các nội dung: Xây dựng mới, nâng cấp, tăng cường năng lực nghiên cứu của các tổ chức KHCN; Xây dựng khu nghiên cứu và phát triển cho các khu công nghệ cao; Xây dựng hạ tầng thông tin, cơ sở dữ liệu quốc gia và thống kê về KHCN; Các hoạt động đầu tư khác phục vụ phát triển KHCN. Chi sự nghiệp KHCN gồm có: Chi thực hiện các nhiệm vụ KHCN; Chi thường xuyên và các nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng của các tổ chức KHCN công lập theo quy định pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN công lập; Tuyên truyền, phổ biến kiến thức, hoạt động thông tin và thống kê KHCN…
Thực tế, những năm qua, Nhà nước chi cho KHCN vẫn đảm bảo ở mức chi tối thiểu 2% trong tổng chi NSNN (tương đương khoảng 0,5% GDP). Xét cả giai đoạn 2011 - 2015, tổng chi NSNN cho KHCN cao gấp 5,6 lần so với giai đoạn 2001 - 2005 và gấp 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010.
Chi NSNN giữ vai trò chủ đạo (chiếm khoảng 60%), trong đó chi cho nghiên cứu và phát triển chiếm khoảng 35 - 40% tổng số đầu tư cho KHCN (đạt khoảng 0,18 - 0,2% của 0,5% GDP). Nếu so sánh với các quốc gia trên thế giới thì tỷ lệ chi quốc gia cho nghiên cứu và phát triển trên GDP của Việt Nam còn thấp. Với tiềm lực NSNN hạn chế nên chi NSNN cho hỗ trợ đổi mới công nghệ còn khiêm tốn. Vì vậy, nhu cầu đổi mới công nghệ của tổ chức cá nhân thấp.
Đối với hoạt động hỗ trợ phát triển dịch vụ trung gian, Bộ KHCN đã phối hợp với các bộ/tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức được nhiều kỳ Techmart với quy mô quốc gia, quốc tế, vùng. Nếu tính cả công nghệ, thiết bị được giao dịch thông qua các Hội chợ thì tổng giá trị các hợp đồng mua bán công nghệ ước tính đạt khoảng 20.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 1 tỷ USD). Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới, Việt Nam vẫn còn kém về mức độ và số lượng của các loại hình dịch vụ KHCN.
Việc phân bổ NSNN phát triển các yếu tố của thị trường KHCN còn dàn trải và phân tán từ các bộ, ngành tới các địa phương và điều đó đang trở thành rào cản lớn, hạn chế phát triển nguồn cung công nghệ trên thị trường. Việc phân bổ chưa đảm bảo theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu cơ chế cạnh tranh minh bạch, phân tán nên hiệu quả đầu tư thấp, chế độ lương bổng không cao, cơ sở vật chất thiếu hụt… tác động làm kìm hãm phát triển của thị trường KHCN thời gian qua.
Các công cụ thuế cho thấy, hệ thống văn bản pháp luật hiện hành đã có những ưu đãi nhất định về mặt chính sách thuế dành cho thị trường công nghệ. Tuy nhiên, trong thực tế thị trường vẫn chưa phát triển được như kỳ vọng. Cơ chế để tiếp cận nguồn vốn đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ còn nhiều khó khăn do quy định vay vốn, hỗ trợ lãi suất hoặc bảo lãnh tín dụng còn nhiều bất cập.
Các quỹ KHCN cấp Quốc gia, tỉnh/thành, bộ/ngành được sử dụng chủ yếu là để tài trợ, cho vay với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, bảo lãnh... đối với các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động phát triển công nghệ. Thực tế, mức trích lập các quỹ còn thấp chưa đạt quy định. Ví dụ: Quỹ Phát triển KHCN quốc gia là 500 tỷ đồng nhưng mức trích thực tế cao nhất mới đạt 300 tỷ đồng. Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia chưa đảm bảo mức tồn quỹ theo quy định là 1.000 tỷ đồng.
Ngoài các thành tựu đã đạt được, đến này vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong việc sử dụng các công cụ tài chính trong các kênh dẫn vốn, để phục vụ mục tiêu phát triển thị trường KHCN. Vì thế, cần có những giải pháp kịp thời nhằm thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả các công cụ tài chính, huy động vốn cho việc phát triển thị trường KHCN.
Khuyến nghị đối với việc huy động vốn cho phát triển thị trường khoa học, công nghệ
Trước bối cảnh hoạt động cải cách, chuyển đổi mô hình và cơ cấu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam tiếp tục được đẩy mạnh và hoàn thiện theo hướng phát triển bền vững, từ tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào lợi thế sẵn có như tài nguyên thiên nhiên và lao động trình độ thấp sang khai thác các yếu tố cạnh tranh trên cơ sở công nghệ cao, nhân lực chất lượng cao và tính hiện đại của cơ sở hạ tầng KT-XH.
Đến năm 2020, thiết lập mạng lưới sàn giao dịch công nghệ kèm theo hệ thống tổ chức dịch vụ KHCN hỗ trợ, trọng tâm là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Để thực hiện mô hình phát triển bền vững phải dựa vào phát triển KHCN, do đó cần tạo ra nhiều cơ hội cho KHCN và thị trường KHCN phát triển. Từ thực tế này, bài viết đề xuất một số giải pháp và khuyến nghị sau:
- Sử dụng các công cụ tài chính phải hướng vào việc tạo lập và phát triển các yếu tố của thị trường KHCN.
- Sử dụng các công cụ tài chính phải hướng tới mục tiêu rõ ràng và tăng cường sự phối hợp giữa các công cụ tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trường KHCN.
- Sử dụng các công cụ tài chính phải đảm bảo, từng bước giảm “bao cấp” NSNN đầu tư cho thị trường KHCN.
- Sử dụng các công cụ tài chính phải khuyến khích huy động tổng hợp các nguồn lực xã hội, đặc biệt là các nguồn ngoài NSNN tham gia vào phát triển thị trường KHCN.
- Giai đoạn tới cần tăng chi NSNN đầu tư cho thị trường công nghệ thông qua tăng tỷ lệ đầu tư cho KHCN từ nay đến năm 2020 để đạt tỷ lệ trên 2% tổng chi NSNN. Xác định lộ trình tăng phù hợp với từng giai đoạn và sau năm 2020, nguồn ngoài NSNN là nguồn chủ yếu đầu tư cho KHCN và thị trường công nghệ nói riêng.
Giai đoạn đầu chú trọng hơn vào nhập khẩu công nghệ để học hỏi, tích lũy kiến thức, quy trình, bí quyết công nghệ và khi có đủ vốn, kiến thức cần thiết thì chuyển hướng trọng tâm vào nghiên cứu cơ bản để tự tạo nguồn công nghệ nội sinh. Việc chi NSNN để nhập khẩu công nghệ cần lưu tâm tới việc chú trọng chất lượng của công nghệ, giảm thiểu việc gây ô nhiễm môi trường.
- Mở rộng miễn thuế thu nhập DN cho các loại hợp đồng KHCN: (1) Hợp đồng NCKH và phát triển công nghệ; (2) Hợp đồng chuyển giao công nghệ; (3) Hợp đồng dịch vụ KHCN (Hiện nay, việc miễn thuế TNDN chỉ áp dụng đối với loại hợp đồng loại (1), còn loại (2) và loại (3) không có sự ưu đãi nào).
- Thành lập được bộ phận chuyên trách thẩm định, đánh giá định kỳ các đề tài, dự án trong lĩnh vực công nghệ để lựa phương án đầu tư. Bộ KHCN phối hợp với các tổ chức tín dụng để thu hút nguồn vốn vào những dự án đầu tư khả thi. Tuy nhiên, việc cho vay phải từ nguồn vốn trung và dài hạn với lãi suất hợp lý.
- Chính sách tín dụng của Quỹ Phát triển KHCN cấp bộ/tỉnh/thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa việc giao quyền chủ động cho các Quỹ này trong hoạt động cho vay theo nguyên tắc đảm bảo hiệu quả, Nhà nước chỉ cần kiểm tra giám sát thông qua hệ thống chỉ tiêu báo cáo định kỳ kết hợp với công tác thanh kiểm tra theo quy định.
Chính sách tín dụng của Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia cần tiếp tục xem xét bổ sung các quy định thuận lợi hơn về các mặt lãi suất, điều kiện bảo lãnh, mở rộng đối tượng được vay…
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BKHCN ngày 15/8/2013 hướng dẫn quản lý Chương trình hỗ trợ phát triển DN KHCN và tổ chức KHCN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm;
2. Hồ Đức Việt (2010), Xây dựng, phát triển thị trường KHCN, NXB Chính trị quốc gia;
3. Phạm Thị Hà (2016), “Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia với phát triển thị trường công nghệ”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 06 (155) 2016, tr12-14;
4. Bùi Văn Khánh (2010), Huy động nguồn lực tài chính xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Hoà Bình, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính;
5. Bùi Tiến Hanh, Phạm Thị Hoàng Phương (2016), Giáo trình Quản lý Tài chính công, Học viện Tài chính;
6. Cochran, I. et al. (2014), “Public Financial Institutions and the Low-carbon Transition: Five Case Studies on Low-CarbonInfrastructure and Project Investment”, OECD Environment Working Papers, No. 72, OECD Publishing.