Hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước

Trần Huyền

Việc xây dựng Luật số 69/2014/QH13 (sửa đổi) về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp với các chính sách mới sẽ tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Luật số 69/2014/QH13 được Quốc hội ban hành năm 2014 triển khai đến nay đã đạt được những kết quả quan trọng trong quản lý và hoạt động đầu tư, quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Tạo cơ sở pháp lý cao nhất trong quản lý, giám sát đầu tư vốn nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp.

Tuy nhiên, trong giai đoạn vừa qua, một số chủ trương, quan điểm chỉ đạo và hệ thống pháp luật có liên quan đến việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp có thay đổi. Quá trình triển khai thực hiện Luật số 69/2014/QH13 và các văn bản hướng dẫn đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế.

Do vậy, cần thiết phải xây dựng Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (sửa đổi) với các chính sách mới nhằm rà soát, sửa đổi các quy định hiện hành cho phù hợp với thực tiễn và định hướng cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới.

Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp

Tại Dự thảo Đề cương Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (sửa đổi), Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về xác định nội hàm quản lý đối với vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Theo đó, cần xem xét thống nhất khái niệm vốn nhà nước và hoàn chỉnh bổ sung khái niệm vốn của doanh nghiệp, vốn đầu tư của chủ sở hữu (nhà nước) tại doanh nghiệp.

Việc quy định rõ vốn nhà nước sau khi đã đầu tư vào doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ góp vốn chủ sở hữu Nhà nước được xác định là tài sản/vốn của pháp nhân doanh nghiệp theo quy định của Bộ Luật dân sự bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, tự chủ trong hoạt động của pháp nhân là doanh nghiệp. 

Việc xây dựng Luật số 69/2014/QH13 (sửa đổi) về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp với nhiều nội dung mới sẽ tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; tăng cường công tác quản lý, giám sát việc sử dụng vốn Nhà nước đúng mục đích, đúng đối tượng.

Về nguồn lực và quy trình đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho rằng cần rà soát, bổ sung quy định rõ nguồn lực thu được từ cơ cấu lại vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và nguồn lợi nhuận/cổ tức chia cho phần vốn nhà nước góp tại các doanh nghiệp phải được chuyển vào ngân sách nhà nước. Nguồn này để sử dụng đầu tư tập trung cho các doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước cần duy trì nắm giữ tỷ lệ 100% vốn điều lệ hoặc các doanh nghiệp có vốn nhà nước hoạt động trong một số lĩnh vực có hiệu quả hoặc có vai trò lớn đối với nền kinh tế; phần còn lại dùng để thực hiện đầu tư phát triển theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.

Trong quy trình đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, cần quy định cụ thể hơn mức và thẩm quyền theo hướng Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư vốn từ 10 ngàn tỷ đồng trở lên vào doanh nghiệp (tương đương mức vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia), dưới mức này sẽ do Chính phủ quy định phân cấp cho các cơ quan quyết định chủ trương đầu tư vốn vào doanh nghiệp (không phân biệt đầu tư vào doanh nghiệp thuộc Trung ương hay địa phương). 

Về chuyển đổi sở hữu và sắp xếp lại doanh nghiệp, theo Bộ Tài chính, quá trình cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp thời gian qua chủ yếu thực hiện dưới hình thức chuyển đổi sở hữu là cổ phần hóa. Cơ chế về cổ phần hóa từ trước đến nay được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ. Quá trình cổ phần hóa đang có chiều hướng chậm lại; việc cổ phần hóa chỉ được điều chỉnh bởi Nghị định của Chính phủ vì vậy tính pháp lý chưa cao.

Nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sở hữu, sắp xếp lại doanh nghiệp, trong đó cơ cấu lại vốn nhà nước tại doanh nghiệp với hình thức chủ yếu là cổ phần hóa, đảm bảo chặt chẽ thì cần được Luật hóa một số nội dung quy định mang tính chất nguyên tắc chung nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của pháp luật trong quá trình thực hiện chuyển đổi cổ phần hóa, bán, thoái vốn như: rà soát phê duyệt phương án sử dụng đất trước khi cổ phần hóa theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật về tài sản công; giá trị doanh nghiệp phải được định giá lại sát với thị trường thông qua tổ chức có chức năng thẩm định giá và làm cơ sở để xác định giá khởi điểm; việc bán cổ phần, thoái vốn phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch, tối đa lợi ích kinh tế - xã hội cho nhà nước; doanh nghiệp sau cổ phần hóa phải đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán...

Quản lý hiệu quả vốn nhà nước và sử dụng các tài sản tại doanh nghiệp

Bộ Tài chính cũng đề xuất bổ sung quy định liên quan đến chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước nhằm quản lý vốn nhà nước và sử dụng các tài sản tại doanh nghiệp có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu sử dụng tài sản được hình thành từ dự án, công trình đầu tư để phục vụ sản xuất kinh doanh phù hợp với ngành nghề kinh doanh chính của các doanh nghiệp.

Theo đó, cần nghiên cứu bổ sung các trường hợp chuyển giao thực tế phát sinh trong thời gian qua nhưng chưa được quy định trong luật hiện hành. Đồng thời, bổ sung quy định nguyên tắc chuyển giao theo hướng tách bạch giữa chuyển giao có thanh toán và chuyển giao không thanh toán, việc chuyển giao không thanh toán chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực quốc phòng an ninh, doanh nghiệp nhà nước cung ứng sản phẩm dịch vụ công, các công ty nông, lâm nghiệp và do Chính phủ quy định.

Đối với chuyển nhượng vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp, thực tế thời gian qua cho thấy, phương thức chào bán cạnh tranh là chào bán cạnh tranh về giá để tiếp tục thực hiện chuyển nhượng vốn thực chất là bán đấu giá công khai. Các doanh nghiệp có vốn góp cần chuyển nhượng vốn cơ bản được hình thành từ cổ phần hóa doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trước đây chưa quy định bắt buộc phải có phương án sử dụng đất được phê duyệt trước khi cổ phần hóa mà cho doanh nghiệp tiến hành xây dựng, trình duyệt phương án sử dụng đất đồng thời với quá trình cổ phần hóa nên dẫn tới khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần có trường hợp phương án sử dụng đất chưa được duyệt.

Để đảm bảo hạn chế tối đa tổn thất cho nhà nước trước khi chuyển nhượng vốn, Bộ Tài chính cho rằng, cần bổ sung nguyên tắc quy định yêu cầu rà soát lại toàn bộ diện tích đất doanh nghiệp đang quản lý sử dụng để hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý về đất đai, quản lý, giám sát chặt chẽ đối với đất được chuyển đổi mục đích thực hiện đấu giá đất theo qua định của Luật Đất đai; thực hiện nghiêm cơ chế cho thuê đất, nộp tiền thuê theo quy định của pháp luật, cũng như việc tính toán giá trị quyền sử dụng đất giao trong giá khởi điểm chuyển nhượng vốn; bãi bỏ phương thức “chào bán cạnh tranh”; giá khởi điểm phải do tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định ngoại trừ trường hợp tỷ lệ Nhà nước đang nắm giữ dưới 36% vốn điều lệ và giá trị vốn nhà nước nắm giữ trong vốn điều lệ nhỏ.

Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng; hình thức và phạm vi đầu tư vốn nhà nước; nhóm chính sách về quản trị doanh nghiệp, về quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu.

Theo Bộ Tài chính, ngoài các nhóm chính sách Bộ đề xuất, trong quá trình xây dựng cần thực hiện rà soát điều chỉnh để đảm bảo tính thống nhất đồng bộ của Luật này với các văn Luật khác theo hướng trường hợp hoạt động của doanh nghiệp là các giao dịch dân sự liên quan đến quy định về vốn và tài sản của doanh nghiệp không có quy định trong Luật này thì áp dụng quy định của Bộ Luật Dân sự.

Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Luật này với các Luật có liên quan đối với nội dung quản lý nhà nước về đầu tư vốn, quản lý, quản lý dụng vốn tại doanh nghiệp hoặc quy định về thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước đói với doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư thì áp dụng Luật này.

Việc xây dựng Luật số 69/2014/QH13 (sửa đổi) về quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp với nhiều nội dung mới sẽ tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm cho việc phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; tăng cường công tác quản lý, giám sát việc sử dụng vốn Nhà nước đúng mục đích, đúng đối tượng.