Hội thảo quy hoạch không gian biển Việt Nam

Xuân Trường

Tại hội thảo "Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045" diễn ra trong hai ngày 5-6/01/2023 do Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng UBND tỉnh Quảng Bình tổ chức với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Na Uy và Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), đại diện Na Uy chia sẻ kinh nghiệm về quy hoạch không gian biển với Việt Nam.

Bà Mette Moglestue, Phó Trưởng Phái đoàn Đại sứ quán Na Uy phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Hương Giang
Bà Mette Moglestue, Phó Trưởng Phái đoàn Đại sứ quán Na Uy phát biểu tại Hội thảo. Ảnh: Hương Giang

Phát biểu khai mạc Hội thảo, Phó Trưởng Phái đoàn Đại sứ quán Na Uy tại Hà Nội, bà Mette Moglestue cho biết “Na Uy là một trong những quốc gia đầu tiên xây dựng kế hoạch quản lý vùng ven biển và đại dương. Vấn đề này đã được phát triển và hoàn thiện qua nhiều năm, đồng thười rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình thực hiện. Các khu vực đại dương của Na Uy hiện được coi là một trong những khu vực được quản lý tốt nhất trên thế giới, với mức độ tạo ra giá trị rất cao: 70% thu nhập xuất khẩu của Na Uy đến từ đại dương”.

“Kinh nghiệm của Na Uy từ cách quản lý biển cho thấy, có thể vừa phát triển một nền kinh tế dựa vào đại dương thịnh vượng đồng thời giữ cho các đại dương sạch sẽ và “khỏe mạnh”. Một quy hoạch không gian biển tốt là chìa khóa cho vấn đề này. Vì vậy, Na Uy rất vui mừng được đồng tổ chức Hội thảo này với UNDP và các đối tác Việt Nam, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn của chúng tôi trong lĩnh vực này”, bà Moglestue cho biết thêm.  

Ông Lê Minh Ngân, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết: "Việt Nam là quốc gia ven biển, với đường bờ biển dài hơn 3.260 km, cung cấp nguồn vốn tự nhiên to lớn cho tăng trưởng kinh tế. Việt Nam có tiềm năng lớn về điện gió trên đất liền và ngoài khơi, nếu được phát triển bền vững, sẽ hỗ trợ đảm bảo an ninh năng lượng và giúp Việt Nam đạt được cam kết không phát thải ròng vào năm 2050. Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 36/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương năm 2018 về chiến lược tăng trưởng bền vững kinh tế biển của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó giải pháp trọng tâm là xây dựng quy hoạch không gian biển quốc gia và quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ.”

“Là quốc gia có bờ biển dài, nhiều đảo, đứng trước những thách thức về ô nhiễm môi trường, suy giảm nguồn lợi, tài nguyên biển, tác động của biến đổi khí hậu, Việt Nam đã tích cực xây dựng chính sách, pháp luật về quản lý biển, đảo đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế trong vài năm qua," ông nói thêm. 

Trong khi đó, ông Patrick Haverman, Phó Trưởng đại diện thường trú của UNDP tại Việt Nam cho biết, quản lý bền vững các vùng biển và ven biển là một công cụ quan trọng để Việt Nam phát triển nền kinh tế biển xanh, thúc đẩy tăng trưởng các ngành mới để nâng cao thu nhập và tạo việc làm mới.

“Đặc biệt, quy hoạch ven biển và quy hoạch không gian biển mở có cơ hội tận dụng tiềm năng to lớn của năng lượng gió biển như một nguồn năng lượng tái tạo thiết yếu để đạt được các mục tiêu khí hậu của Việt Nam,” ông Haverman lưu ý, đồng thời nhấn mạnh, quy hoạch vùng ven biển cũng sẽ giúp đảm bảo sự phát triển tối ưu và đồng bộ giữa các ngành trong khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ Việt Nam, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử và nâng cao khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu.

Phạm vi của Quy hoạch vùng ven biển bao gồm vùng biển và đất liền ven biển như sau: (i) Vùng biển ven bờ có ranh giới phía trong là mép nước biển thấp nhất trung bình nhiều năm (18,6 năm), ranh giới phía ngoài cách mép nước biển thấp nhất 06 hải lý trung bình nhiều năm do Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định và công bố; và (ii) vùng đất ven biển bao gồm các xã, phường, thị trấn có biển thuộc 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Quy hoạch tổng thể nhằm phát triển bền vững vùng ven biển thông qua nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên trong khuôn khổ quản lý tổng hợp, đồng thời chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Nâng cao đời sống, điều kiện sống của cộng đồng dân cư ven biển, gắn với bảo tồn và phát triển các giá trị tự nhiên, sinh thái, văn hóa, giữ gìn trật tự xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Về văn hóa xã hội, duy trì, bảo tồn nguyên vẹn các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa của từng dân tộc vùng ven biển. Quy hoạch tổng thể nhằm thúc đẩy công bằng xã hội, bảo vệ quyền tiếp cận biển của người dân ven biển, bảo đảm quyền tiếp cận biển và thụ hưởng các dịch vụ, phúc lợi xã hội thiết yếu của người dân ven biển, tăng cường sự tham gia tích cực, có trách nhiệm của người dân vào quá trình bảo vệ tài nguyên, môi trường và các giá trị văn hóa, lịch sử vùng ven biển.

Về môi trường, nhằm quản lý, bảo vệ hiệu quả các hệ sinh thái vùng ven biển, phục hồi và mở rộng diện tích các khu bảo tồn trên đất liền và vùng nước ven biển, góp phần đạt ít nhất 6% diện tích các khu bảo tồn biển và ven biển. Quản lý hiệu quả nguồn ô nhiễm từ đất liền, ô nhiễm rác thải nhựa ven biển, góp phần giảm 75% rác thải nhựa trên biển. 100% các khu bảo tồn biển không còn rác thải nhựa ven biển. 100% chất thải nguy hại, chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nhựa ven biển được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường. 100% các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị ven biển có hệ thống xử lý nước thải tập trung,

Tại hội thảo, đại diện Cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã trao đổi về việc phân vùng phát triển các ngành kinh tế biển ở vùng ven biển, bao gồm các vấn đề, vướng mắc và giải pháp khả thi. Do đó, việc khai thác, sử dụng tài nguyên vùng bờ biển Việt Nam được xác định theo 4 vùng: bờ biển phía Bắc (Quảng Ninh - Ninh Bình), bờ biển Bắc Trung Bộ, bờ biển Trung Bộ (Thanh Hóa - Bình Thuận), bờ biển Đông Nam Bộ. bờ biển (Bà Rịa - Vũng Tàu - TP.HCM), bờ biển Tây Nam (Bà Rịa - Vũng Tàu - TP.HCM) (Tiền Giang - Cà Mau - Kiên Giang).