Hướng tới đạt mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức Đầu tư đến năm 2030
Hệ số xếp hạng tín nhiệm (XHTN) quốc gia của Việt Nam liên tục được cải thiện trong những năm gần đây cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức bền vững. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam phấn đấu đạt mức XHTN quốc gia ở mức Đầu tư đến năm 2030, từ Baa 3 (đối với Moody’s) hoặc BBB- (đối với Standard & Poor's (S&P) và Fitch Ratings), góp phần giảm rủi ro tín dụng quốc gia.
Sáng ngày 13/5/2022, tại TP. Hạ Long - Quảng Ninh, Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) phối hợp với Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và các ngân hàng tư vấn cho Việt Nam tổ chức Hội nghị phổ biến Đề án cải thiện XHTN quốc gia tới năm 2030.
Hệ số tín nhiệm và triển vọng xếp hạng của Việt Nam liên tục được cải thiện
Phát biểu khai mạc hội nghị, ông Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã hợp tác chính thức cả 3 tổ chức XHTN lớn nhất và có uy tín trên thế giới là Moody’s, S&P và Fitch Ratings.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác XHTN quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án nâng cao hệ số tín nhiệm quốc gia đến năm 2020 (Quyết định số 412/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ).
Đặc biệt, trong giai đoạn 2013-2021, hệ số tín nhiệm và triển vọng xếp hạng liên tục được cải thiện qua các năm, góp phần giúp Chính phủ mở mang các kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại đa dạng hóa nguồn tài chính, giúp đẩy mạnh thu hút nguồn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam.
Đến tháng 4/2022, các tổ chức xếp hạng đều đánh giá triển vọng tín nhiệm của Việt Nam ở mức Tích cực với định mức tín nhiệm Ba3 (Moody’s) và BB (S&P, Fitch Ratings).
Theo đại diện Cục Quản lý Nợ và Tài chính đối ngoại, các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến XHTN của Việt Nam là do tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức bền vững (tăng trưởng GDP bình quân 10 năm qua đạt 5,3%; Sức mạnh tài khóa được đánh giá tương đương với các nước ở mức tín nhiệm Đầu tư nhờ thành quả củng cố tài khóa, tăng cường hiệu quả quản lý nợ công và đảm bảo khả năng trả nợ của ngân sách nhà nước; Nợ trong nước có xu hướng tăng với nợ nước ngoài chủ yếu là các khoản vay ODA, vay ưu đãi; Bền vững nợ được củng cố bởi điều kiện vay thuận lợi; Vị thế đối ngoại vững chắc, củng cố đệm dự trữ ngoại hối.
“Việc cải thiện XHTN quốc gia là kết quả của việc triển khai đồng bộ, hiệu quả các biện pháp ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường hệ thống tài chính - ngân hàng của Đảng, Quốc hội và Chính phủ; đồng thời cũng là kết quả của các bộ, ngành trong việc trao đổi, chia sẻ các thông tin cập nhật với các tổ chức XHTN”, ông Trương Hùng Long nhấn mạnh.
Đánh giá về các yếu tố thúc đẩy nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam, bà Michele Wee - Tổng Giám đốc Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam cho biết, trong giai đoạn 2015 - 2021, Việt Nam đã duy trì hiệu quả kinh tế và nợ chính phủ liên tục thấp hơn so với các nước ASEAN. Tài khóa vãng lai ổn định và khả năng vượt trội của dòng vốn FDI bất chấp cú sốc của đại dịch COVID-19.
“Việc duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định và tích cực của Việt Nam đã được các tổ chức XHTN công nhận và điều chỉnh lên mức Tích cực, góp phần cho hỗ trợ tín nhiệm quốc gia”, bà Michele Wee cho hay.
Ở khía cạnh khác, ông Phạm Văn Hiếu - Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) cho rằng, để cải thiện XHTN ở Việt Nam trong thời gian tới, cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý; đồng thời, nâng cao nhận thức về khả năng tài chính và khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp được XHTN; cân nhắc rủi ro để định hướng và ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tác động tích cực đến XHTN của Việt Nam, các chuyên gia chỉ ra một số tồn tại, hạn chế như: Cơ cấu lại các ngành và đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm, thiếu bền vững; Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu; Dư địa tăng thu ngân sách nhà nước hạn hẹp, xuất khẩu vẫn phụ thuộc vào khu vực có vốn FDI; Cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm gồm doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng chưa đáp ứng tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế…
Làm gì để đạt mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức Đầu tư đến năm 2030?
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên, cũng như phấn đấu đạt mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia ở mức Đầu tư đến năm 2030, các chuyên gia đều chung quan điểm cho rằng, thời gian tới, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030. Đồng thời, cải thiện chất lượng thể chế, quản trị, công khai minh bạch dữ liệu.
Cùng với đó, tiếp tục chú trọng xây dựng nền tài chính công vững mạnh, mở rộng cơ sở thu bền vững để cải thiện các chỉ số nợ và thúc đẩy củng cố tài khóa.
Bên cạnh đó, cải thiện cơ cấu và chất lượng của khu vực ngân hàng và doanh nghiệp nhà nước theo hướng tái cấu trúc ngành Ngân hàng, giảm thiểu rủi ro nợ xấu, đảm bảo mọi khoản vay của Chính phủ được thanh toán đầy đủ, đúng hạn.
Ngoài các giải pháp trên, các chuyên gia cũng khuyến nghị, nên tăng cường hiệu quả, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác XHTN quốc gia, tăng cường hợp tác với các tổ chức XHTN. Để đạt được các mục tiêu Đề án, cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền về chủ trương, chính sách quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ để các tổ chức XHTN ghi nhận và XHTN…
Các chuyên gia tham dự Hội nghị đã tập trung thảo luận các nội dung: Thành tựu nổi bật trong hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam; Những tồn tại, hạn chế trong hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam; Thách thức, rủi ro nội tại và bên ngoài có ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu cải thiện XHTN của Việt Nam; Tầm quan trọng của công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc cải thiện hệ số tín nhiệm của Việt Nam thời gian tới và đề xuất các giải pháp để tăng cường hiệu quả công tác phối hợp; Vai trò của việc tăng cường mối quan hệ với các tổ chức XHTN, nhà đầu tư, các tổ chức quốc tế để cung cấp thông tin cập nhật về hồ sơ tín nhiệm của Việt Nam và việc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để tăng cường mối quan hệ này.