Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ: Góc nhìn từ thị trường chứng khoán

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 12/2019

Chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ là công cụ điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng đối với mỗi quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Hai chính sách này tuy có khuôn khổ thực thi riêng nhưng khi phối hợp với nhau lại tạo ra những hiệu quả rất lớn đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế quan trọng. Nhận diện vai trò và tác động của phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ đến thị trường tài chính nói chung, thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán nói riêng, bài viết đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần tăng cường sự phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ trong bối cảnh hiện nay.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Những năm gần đây, phối hợp chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) đã có những bước tiến quan trọng. Hai chính sách này đã gắn kết chặt chẽ hơn sau Quyết định số 1317/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô.

Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ: Góc nhìn từ thị trường chứng khoán  - Ảnh 1

Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế vĩ mô ổn định và bền vững, Chính phủ ban hành các chính sách vĩ mô mà 2 công cụ quan trọng nhất giữ yếu tố quyết định trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế là CSTT và CSTK. Thông qua CSTK, Chính phủ sử dụng 2 công cụ thuế khóa và chi tiêu công để điều tiết chi tiêu chung của nền kinh tế. Trong khi, thông qua CSTT, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh mức cung tiền và lãi suất bằng nhiều công cụ khác nhau nhằm tác động đến lượng cung tiền và số nhân tiền, điều này có tác động trực tiếp đến các lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Với mỗi thay đổi trong chính sách vĩ mô là CSTT hay CSTK đều tạo ra những tác động trực tiếp hay gián tiếp lên thị trường chứng khoán (TTCK). Vì vậy, thiếu sự phối hợp giữa CSTK và CSTT sẽ đặt ra những thách thức lớn về cân đối thu chi ngân sách và ổn định tiền tệ cho nền kinh tế.

Là một cấu phần quan trọng trong cấu trúc thị trường tài chính và có mối liên thông chặt chẽ với thị trường tiền tệ - ngân hàng, bài viết xem xét tác động của TTCK theo 2 góc độ cụ thể sau: Vừa là một yếu tố tác động cần được xem xét khi xây dựng các chính sách vĩ mô; vừa là một công cụ để Chính phủ nâng cao hiệu quả phối hợp của CSTK và CSTT. Ngoài 2 góc độ trên, bài viết còn nghiên cứu, phân tích 4 vấn đề liên quan giữa TTCK và sự phối hợp giữa CSTT và CSTK nhằm làm rõ vai trò của TTCK đối với quá trình phối hợp 2 chính sách này.

Hiện nay, trong tiến trình cải cách, đổi mới nền kinh tế, thị trường vốn, trong đó, TTCK đóng một vai trò hết sức quan trọng. TTCK góp phần tạo ra một kênh huy động vốn đầu tư trung và dài hạn từ các thành phần kinh tế, người dân và xã hội, trong nước và ngoài nước, cùng với nguồn vốn tín dụng ngân hàng sẽ tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống người dân. Trải qua hơn 25 năm xây dựng và trưởng thành, TTCK Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Quy mô TTCK chiếm khoảng 80% GDP, vốn huy động qua TTCK đã đáp ứng khoảng 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, cho thấy sự tăng trưởng nhanh của TTCK, góp phần hình thành một hệ thống tài chính hiện đại trên nền tảng hài hòa giữa TTCK và thị trường tiền tệ - tín dụng. Điều này giải thích vì sao phát triển và ổn định TTCK là một trong những mối quan tâm hàng đầu trong phát triển kinh tế và ổn định vĩ mô.

Quản lý dòng vốn đầu tư nước ngoài

Với sự phát triển vượt bậc trong những năm qua, TTCK Việt Nam ngày càng thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN). Nhà ĐTNN hầu hết mua ròng trên TTCK Việt Nam qua các năm, đặc biệt là 3 năm gần đây. Trong giai đoạn 2017-2019, giá trị mua ròng của nhà ĐTNN trên TTCK Việt Nam đạt hơn 110 nghìn tỷ đồng, trong đó nhiều phiên có giá trị mua ròng đạt hơn 100 triệu USD và đặc biệt có 1 phiên giá trị mua ròng đạt mức kỷ lục hơn 1,25 tỷ USD. Với việc các nhà ĐTNN đang nắm giữ khoảng 25% tổng vốn hóa thị trường, tỷ lệ sở hữu nước ngoài của TTCK Việt Nam hiện cũng đang ở mức cao so với các nước trong khu vực (Singapore 23,8%, Thái Lan 13,4%, Philippines 4,1%, Indonesia 16,3%, Malaysia 42,4%).

Nhà ĐTNN đã và đang trở thành một nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến diễn biến hàng ngày của TTCK Việt Nam. Mức độ sở hữu nước ngoài cao trên TTCK thể hiện niềm tin của các nhà ĐTNN vào nền kinh tế và TTCK Việt Nam, tuy nhiên mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn gián tiếp cũng tiềm ẩn rủi ro dòng vốn đảo chiều. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng tài chính đối với các thị trường mới nổi cho thấy, rủi ro đảo chiều dòng vốn nước ngoài luôn thường trực, ngay cả đối với các quốc gia duy trì được các chỉ số kinh tế vĩ mô ổn định. Rủi ro hệ thống dưới tác động của luồng vốn đầu tư gián tiếp có khả năng đưa nguy cơ khủng hoảng tài chính trở thành khủng hoảng của nền kinh tế. Bên cạnh đó, gia tăng các dòng vốn sẽ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, tăng tỷ giá hối đoái thực, tạo áp lực lạm phát, mở rộng nhu cầu nội địa và ảnh hưởng đến các biến số vĩ mô theo cách không phù hợp với các mục tiêu chính sách quốc gia. Gia tăng các dòng vốn cũng có thể đẩy giá cổ phiếu, bất động sản và các tài sản khác lên cao, gây "bong bóng" tài sản như đã từng xảy ra trong các năm 2006-2007, khi dòng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào TTCK Việt Nam sau thời điểm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

Những rủi ro tiềm ẩn của dòng vốn ĐTNN đặt ra thách thức cho công tác phối hợp giữa NHNN, Bộ Tài chính (Ủy ban Chứng khoán Nhà nước), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, các cơ quan quản lý nhà nước trong công tác quản lý và giám sát dòng lưu chuyển vốn gián tiếp nước ngoài, vốn đầu tư trực tiếp và các khoản vay. Trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, đặc biệt là các nguồn vốn nước ngoài, cần duy trì và cân bằng hợp lý giữa tín dụng quốc tế, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và dự trữ ngoại hối. Việc điều hành các chính sách tín dụng và chính  sách tỷ giá cần được xem xét trong các kịch bản khác nhau về dòng vốn đầu tư nước ngoài nhằm đạt được các mục tiêu vĩ mô cuối cùng.

San sẻ gánh nặng cho hệ thống ngân hàng

Thực tiễn cho thấy, trong những năm gần đây, TTCK ngày càng khẳng định vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Hoạt động phát hành chứng khoán ngày càng thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp. Nếu như giai đoạn 2005 - 2009, tổng giá trị huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua chào bán chứng khoán đạt gần 95 nghìn tỷ đồng, thì con số này đã tăng gấp 2,2 lần trong giai đoạn 2010-2014 với giá trị hơn 210 nghìn tỷ đồng và tiếp tục đạt mức tăng trưởng gần 265 nghìn tỷ đồng cho doanh nghiệp trong giai đoạn 2015-2019.

Mặc dù, kênh huy động vốn qua TTCK đã góp phần giải tỏa áp lực đối với nguồn vốn cấp tín dụng dài hạn cho nền kinh tế qua hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM), tuy nhiên vẫn còn khá khiêm tốn so với thị trường tín dụng do TTCK còn non trẻ, tính thanh khoản chưa cao; quy mô của TTCK còn nhỏ so với tiềm năng. Trong khi, tốc độ tăng trưởng tín dụng của khu vực tài chính Việt Nam diễn ra khá nhanh trong thập kỷ qua. Tổng dư nợ tín dụng khu vực tài chính cung cấp cho nền kinh tế đến cuối năm 2018 đạt hơn 7,2 triệu tỷ đồng (tương đương 130% GDP).

Quy mô thị trường vốn còn hạn chế, chưa thực hiện được chức năng là kênh dẫn vốn trung, dài hạn cho nền kinh tế. Thực tế này dẫn đến sự phụ thuộc lớn vào hệ thống các NHTM và có thể tạo ra những rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản nếu chu kỳ sản xuất, kinh doanh không thuận lợi, không trả nợ đúng hạn, làm phát sinh nợ xấu. Vì vậy, Chính phủ luôn chú trọng các giải pháp nhằm hướng tới cân bằng thị trường tiền tệ và thị trường vốn, cụ thể là tiếp tục tái cơ cấu toàn diện TTCK đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025 thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng, xây dựng cơ cấu hợp lý hơn, cân bằng hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, giữa thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu, trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp, hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tiệm cận với các thông lệ quốc tế. Phấn đấu quy mô thị trường cổ phiếu đến năm 2020 đạt 100% GDP.

Đẩy mạnh phát triển thị trường trái phiếu,  tạo kênh huy động vốn hữu hiệu

Tại Quyết định số 1191/QÐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu phát triển thị trường trái phiếu ổn định, cấu trúc hoàn chỉnh, đồng bộ về các yếu tố cung - cầu; tăng quy mô và chất lượng hoạt động, bảo đảm thị trường hoạt động công khai, minh bạch, hiệu quả và chủ động hội nhập, từng bước tiệm cận các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Phấn đấu đưa dư nợ thị trường trái phiếu đạt khoảng 45% GDP vào năm 2020 và khoảng 65% GDP vào năm 2030. Trong đó, dư nợ thị trường trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương đạt khoảng 38% GDP vào năm 2020 và khoảng 45% GDP vào năm 2030; dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 7% GDP vào năm 2020 và khoảng 20% GDP vào năm 2030. Lộ trình này được kỳ vọng là một “cú huých” quan trọng để thúc đẩy quá trình tái cấu trúc thị trường tài chính Việt Nam, giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tín dụng ngân hàng và chủ động tăng nguồn vốn trung, dài hạn phục vụ tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.

Thị trường chứng khoán lớn mạnh sẽ san sẻ gánh nặng với ngân hàng trong tài trợ vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế, nhất là vốn trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán cùng với kênh tín dụng đảm đương vai trò cung cấp vốn cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán luôn có sự liên hệ mật thiết trong chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ để phát triển kinh tế vĩ mô.

Thực tế cho thấy, đối với mỗi quốc gia, thị trường trái phiếu là cơ sở hạ tầng quan trọng cho việc quản lý nợ công. Thị trường trái phiếu có phát triển thì tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ mới cao, qua đó thu hút được các nguồn vốn nhàn rỗi của các khu vực khác trong nền kinh tế. Đồng thời, thị trường trái phiếu chính phủ là cơ sở để xác định đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường tài chính, vì mức lãi suất này không chứa đựng những yếu tố rủi ro. Trái phiếu chính phủ là một phương tiện quan trọng để NHNN thực thi CSTT, thông qua việc mua bán trái phiếu chính phủ mà NHNN tác động mạnh, thậm chí chi phối giá cả trái phiếu trên thị trường. Các tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng của CSTT cũng tác động mạnh đến giá trái phiếu chính phủ.

Kể từ khi xây dựng thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt, thị trường trái phiếu chính phủ Việt Nam đã có bước phát triển ấn tượng về quy mô và độ sâu, khẳng định vai trò quan trọng là kênh huy động vốn hiệu quả cho ngân sách nhà nước (NSNN), đóng góp không nhỏ đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Trên thị trường sơ cấp, trong vòng 10 năm, hơn 1,8 triệu tỷ đồng vốn đã được huy động cho NSNN để phục vụ cho nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế đất nước. Con số này tương ứng với mức huy động bình quân năm đạt hơn 180 nghìn tỷ đồng, chiếm 10,6% tổng vốn đầu tư của toàn xã hội năm 2018, 31% tổng vốn đầu tư của khu vực nhà nước năm 2018. Theo thống kê, để huy động được lượng vốn hơn 1,8 triệu tỷ đồng này, đã có 1.872 phiên đấu thầu được tổ chức với tỷ lệ huy động thành công bình quân đạt 60-70% trên tổng khối lượng gọi thầu.

Qua 10 năm, lãi suất huy động vốn trên thị trường trái phiếu chính phủ đã giảm đáng kể, giúp tiết kiệm cho NSNN hàng nghìn tỷ đồng tiền trả lãi và hỗ trợ tích cực trong điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Lãi suất huy động vốn trung bình đã giảm từ 4-6%/năm trên tất cả các kỳ hạn. Trong đó, đặc biệt giảm mạnh tại các kỳ hạn 5 năm (giảm từ 10,49%/năm trong 2009 xuống còn 3,55%/năm trong 2019; kỳ hạn 10 năm (giảm từ mức 9,7%/năm trong 2009 xuống còn 4,35%/năm trong 2019). Không những vậy, đường cong lãi suất ra đời năm 2013 đã phát huy vai trò tích cực trong việc định lãi suất tham chiếu và định giá trái phiếu, giúp cho nhà đầu tư và thành viên thị trường thuận lợi hơn trong việc giao dịch trái phiếu trên thị trường. Mặt khác, giữa NHNN và Bộ Tài chính đã có sự phối hợp trong việc hình thành lãi suất trái phiếu chính phủ, từ đó thống nhất với lãi suất điều hành của NHNN, hạn chế những bất cập trong việc hình thành giá của sản phẩm tài chính trên thị trường và không làm méo nó sự luân chuyển vốn trong xã hội. Ngược chiều giảm lãi suất, kỳ hạn của các trái phiếu ngày càng tăng. Đến nay, Kho bạc Nhà nước đã phát hành thành công các trái phiếu chính phủ với kỳ hạn lên tới 30 năm.

Phối hợp chính sách tài khóa và tiền tệ: Góc nhìn từ thị trường chứng khoán  - Ảnh 2

Nhờ sự đa dạng kỳ hạn, nhà đầu tư có nhiều lựa chọn hơn trên thị trường này và ở góc độ quản lý điều này cũng giúp giảm áp lực trả nợ trong thời gian ngắn và làm tăng hiệu quả cho đầu tư phát triển của toàn xã hội. Bản thân các NHTM cũng tích cực trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, trong đó có việc mua trái phiếu chính phủ, góp phần kéo dài kỳ hạn trái phiếu. Nếu như năm 2009, trái phiếu chính phủ phát hành chỉ có 4 kỳ hạn 2, 3, 5 và dài nhất là 10 năm, trong đó kỳ hạn 5 năm trở lên chỉ chiếm 15% tổng khối lượng phát hành thì đến 2019 đã có thêm các kỳ hạn dài 15 năm, 20 năm và 30 năm, trong đó kỳ hạn dài từ 10 năm trở lên đã chiếm đến 90% tổng khối lượng phát hành. Hiện nay, trái phiếu chính phủ là phương tiện chủ yếu để NHNN thực hiện việc bơm/hút tiền từ nền kinh tế thông qua các công cụ CSTT, đặc biệt là thông qua nghiệp vụ thị trường mở, tạo tính thanh khoản cho trái phiếu chính phủ và hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM. Lượng trái phiếu mà các NHTM mua ngày càng tăng qua các năm. Năm 2018, NHTM nắm giữ hơn 38% lượng trái phiếu chính phủ lưu hành. Việc các NHTM mua trái phiếu là điều kiện tốt để có thể huy động nguồn bù đắp thâm hụt ngân sách thuận lợi với chi phí thấp hơn nhiều so với phát hành trái phiếu trực tiếp cho người dân.

Định hướng trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục phát triển trái phiếu chính phủ trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, từng bước giảm phụ thuộc vào ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp huy động vốn trái phiếu. Cùng với sự phát triển của TTCK, thị trường trái phiếu, trong đó có trái phiếu doanh nghiệp, khi được khơi thông sẽ góp phần giải bài toán mất cân đối của hệ thống tài chính, không chỉ đáp ứng yêu cầu phục vụ tăng trưởng cao của nền kinh tế mà còn bảo đảm an toàn, lành mạnh tài chính trước những biến động khó lường của thị trường tài chính quốc tế.

Tăng cường đánh giá tác động của cổ phần hóa và thoái vốn đến điều hành chính sách vĩ mô

TTCK đã góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế cả về ngành, lĩnh vực hoạt động lẫn đối tượng tham gia; tái cơ cấu nguồn nhân lực cho doanh nghiệp và xã hội; nâng cao tính công khai, minh bạch, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, tăng cường sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Thống kê từ năm 2016 đến tháng 9/2019 cho thấy, tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt 220 nghìn tỷ đồng, gấp 2,8 lần tổng thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn 2011-2015 (78 nghìn tỷ đồng). Về tình hình sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn, lũy kế giai đoạn 2016 đến tháng 9/2019 đã thu về Quỹ Hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp là hơn 177,5 nghìn tỷ đồng, trong đó: 9 tháng đầu năm 2019, số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nộp về quỹ là 4.799 tỷ đồng. Thông qua tổ chức thành công các cuộc đấu giá trên 02 Sở Giao dịch Chứng khoán, công tác cổ phần hóa và thoái vốn đã được thúc đẩy và nâng cao hiệu quả. Giai đoạn 2016 – 2019, tổng giá trị thực tế bán được khá cao, thặng dư thu được từ bán đấu giá cổ phần hóa và thoái vốn tăng mạnh, đặc biệt là năm 2017, cao hơn gấp 5,5 lần với các năm trước nhờ các đợt thoái vốn thành công của Bộ Công Thương tại Sabeco và thoái vốn của SCIC tại Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam. Cụ thể, từ năm 2016 đến nay, 02 Sở Giao dịch Chứng khoán đã tổ chức thành công 123 phiên đấu giá cổ phần hóa với tổng giá trị bán được là hơn 33,4 nghìn tỷ đồng và 169 phiên đấu giá thoái vốn nhà nước, mang về cho Nhà nước hơn 157,5 nghìn tỷ đồng.

Quy mô ngày càng lớn của các thương vụ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước cũng tạo ra các tình huống cá biệt, ảnh hưởng đến công tác điều hành CSTT và CSTK. Điển hình là thương vụ thoái vốn cổ phần nhà nước tại Sabeco, thu về lượng ngoại tệ rất lớn khoảng 4 - 5 tỷ USD, tạo áp lực trong việc điều hành của NHNN khi mua vào lượng ngoại tệ lớn này. Trước bối cảnh đó, NHNN đã linh hoạt phối hợp với Bộ Tài chính và được Bộ trưởng Bộ Tài chính quan tâm chỉ đạo các đơn vị chức năng điều chuyển tiền gửi Kho bạc Nhà nước tại tổ chức tín dụng sang NHNN, để đạt được mục tiêu của 2 bên điều hành, vừa kiểm soát được lượng tiền, kiểm soát lạm phát.

Năm 2020 là năm cuối trong thực hiện kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn của Chính phủ với hàng loạt doanh nghiệp lớn nằm trong danh sách thoái vốn và cổ phần hóa như Agribank, Vinachem, Mobifone, Genco 1, Genco 2… Ước tính, tổng vốn hóa của các doanh nghiệp lớn này ở mức khoảng 8 tỷ USD. Việc đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn tại các doanh nghiệp này sẽ giúp tăng đáng kể vốn hóa cho TTCK Việt Nam và đạt được mốc 100% GDP trong năm 2020. Thực tế cho thấy, phần lớn doanh nghiệp nhà nước đều có kết quả kinh doanh tích cực sau khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng.

Dù vậy, công cuộc thoái vốn và cổ phần hóa vẫn tiếp tục gặp khó khăn. Khối lượng công việc rất lớn trong năm 2020 do mới chỉ hoàn thành được khoảng 30% kế hoạch. Theo kế hoạch giai đoạn 2017 – 2020 phải cổ phần hóa 128 doanh nghiệp, nhưng đến nay mới thực hiện được 36 doanh nghiệp. Về kế hoạch thoái vốn, theo Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, giai đoạn 2017 – 2020 phải thực hiện thoái khoảng 60.000 tỷ đồng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp, nhưng trong giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 9/2019, cả nước mới thoái được 24.510 tỷ đồng (tương đương 40%), thu về 170.629 tỷ đồng, trong đó phần lớn là số vốn đã thoái tại các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Thực trạng này đòi hỏi các bộ, ngành có liên quan phải sát sao hơn nữa với công tác cổ phần hóa và thoái vốn; đồng thời, phối hợp chặt chẽ để kịp thời đối phó với các tác động khó lường từ hoạt động cổ phần hóa, thoái vốn lên tổng thể CSTK và CSTT hiện hành.

Những phân tích cho thấy, CSTK và CSTT tuy có những chức năng riêng nhưng lại có mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau trong việc thực hiện mục tiêu kinh tế chung của mỗi quốc gia. Với một nước đang phát triển như Việt Nam thì mối quan hệ giữa 2 chính sách này trong điều hành, quản lý kinh tế vĩ mô ngày càng trở nên quan trọng. Một khi sự phối hợp các chính sách này được thực hiện tốt sẽ là cơ sở quan trọng để phát triển thị trường tài chính - tiền tệ, gia tăng hiệu quả tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và cải cách hệ thống tài chính. Ở chiều ngược lại, hệ thống tài chính - tiền tệ cũng có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả của 2 chính sách vĩ mô quan trọng. Thị trường vốn với vai trò kênh huy động vốn trung và dài hạn cho cả doanh nghiệp và Nhà nước, góp phần cân đối NSNN cũng như giúp CSTT được điều hành linh hoạt, hiệu quả. Tuy nhiên, sự liên thông chặt chẽ giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn là yếu tố đáng lưu tâm khi có thể khiến công tác điều hành CSTK và CSTT trở nên phức tạp và khó khăn. Các biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, các biến đổi về chỉ số chứng khoán hoặc trị giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ánh các hiện tượng tốt xấu đã đang và sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Các chính sách của Nhà nước như chính sách lãi suất, tiền tệ với mục đích phát triển thị trường tiền tệ cũng là các yếu tố ngăn cản phạm vi hoạt động của thị trường vốn.

Xuất phát từ thực tế này, công tác phối hợp giữa Bộ Tài chính và NHNN, giữa CSTK và CSTT cần được thể chế hóa và hệ thống hóa. Hai cơ quan tăng cường thiết lập cơ chế cung cấp, trao đổi thông tin thường xuyên, tin cậy giữa các đơn vị chức năng của 2 cơ quan để kịp thời nắm bắt đầy đủ, chính xác thông tin cần thiết phục vụ quá trình dự báo và hoạch định CSTK, CSTT trong ngắn hạn cũng như dài hạn; song song với đó là thiết lập cơ chế tham vấn, đóng góp và tham gia ý kiến trực tiếp giữa các đơn vị chức năng của 2 cơ quan trong quá trình xây dựng, ban hành và thực thi CSTK và CSTT.         

 Tài liệu tham khảo:

1. Quyết định số 1191/QÐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030;

2. Quyết định số 1317/QĐ-TTg về phê duyệt Đề án cải cách cơ chế phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô;

3. Quyết định số 1232/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Danh mục doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện thoái vốn giai đoạn 2017 - 2020;

4. Nguyễn Trọng Tài, Phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trong kiểm soát thị trường tài chính, Tạp chí Ngân hàng, số 24/2018;

5. Các website: baodautu.vn, thoibaotaichinhvietnam.vn, hnx.vn.