Thị trường chứng khoán nghiêng dần sang nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ

Theo Anh Hoa/baodautu.vn

Nhóm này ghi nhận kết quả kinh doanh quý II tăng trưởng vượt trội so với cùng kỳ hoặc có tỷ suất cổ tức sắp chi trả cao.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Diễn biến ngành trong 6 tháng đầu năm 2020 trên sàn HOSE vừa được SSI công bố cho thấy, trong nửa đầu năm 2020, các ngành có mức tăng trưởng vốn hóa vượt trội so với thị trường gồm có vật liệu (24,9%), dịch vụ viễn thông (34,7%), và chăm sóc sức khỏe (3,7%).

Trong khi các ngành có mức vốn hóa sụt giảm mạnh nhất gồm: tiện ích (20,3%), tiêu dùng không thiết yếu (19,7%), năng lượng (17,8%) và bất động sản (14,6%).

Dựa trên danh sách các cổ phiếu mà SSI Research đang theo dõi, tăng trưởng lợi nhuận ròng năm 2020 của các công ty niêm yết ước tính giảm 17,2%  so với cùng kỳ năm. Đây là mức giảm đáng kể khi so với mức tăng trưởng 18,8% trong năm 2019.

Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích SSI ước tính tăng trưởng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ phục hồi lên mức 27,7% trong năm 2021. Do đó, thị trường chứng khoán Việt Nam đang giao dịch với hệ số P/E 2020 và 2021 lần lượt là 15,1 lần và 11,8 lần.

Theo SSI xu hướng thị trường ngắn hạn đã bước vào nhịp tăng mới kể từ đầu tháng 7. Vì vậy, những nhịp điều chỉnh nhẹ trong tháng sẽ là cơ hội để nhà đầu tư gia tăng tỷ trọng cổ phiếu.

Tuy nhiên tăng trưởng của chỉ số sẽ không quá lớn, dự kiến VN-Index trong tháng có thể tiệm cận vùng đỉnh đầu tháng 6 (tại mức 900 điểm), tức cao hơn 9% so với mức mở cửa vào đầu tháng.

Mức kháng cự 873.5 điểm là mốc quan trọng cần quan sát, một khi VN-Index vượt qua được thuyết phục thì xu hướng tăng càng được củng cố. Lúc này, nhà đầu tư cũng có thể xem xét sử dụng margin ở một tỷ lệ vừa phải để gia tăng tỷ suất lợi nhuận.

Đặc biệt, sau giai đoạn đầu tháng thị trường được dẫn dắt bởi nhóm cổ phiếu vốn hoá lớn, dư địa tăng trưởng của VN-Index trong tháng 7 không còn nhiều.

Điều này khiến các chuyên gia phân tích dự báo thị trường nhiều khả năng sẽ chứng kiến sự dịch chuyển dần sang nhóm cổ phiếu vốn hóa nhỏ hơn, chủ yếu thuộc lĩnh vực bất động sản khu công nghiệp, thủy hải sản, chăn nuôi..

Bởi nhóm này ghi nhận kết quả kinh doanh quý 2 tăng trưởng vượt trội so với cùng kỳ hoặc có tỷ suất cổ tức sắp chi trả cao. Đặc biệt là khi lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng và 13 tháng tại các ngân hàng lớn tiếp tục giảm.

Thông thường một công ty được xem là có vốn hóa thị trường nhỏ khi giá trị thị trường nằm trong khoản từ 300 triệu USD đến 2 tỷ USD.

Một số công ty có vốn hóa nhỏ được nhà đầu tư chú ý đầu tư phải kể đến như Công ty cổ phần Sonadezi Long Thành (mã: SZL), Công ty cổ phần Sonadezi Châu Đức (mã: SZC), Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (mã: GVR), Công ty cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2 (mã: D2D), Công ty cổ phần Vĩnh Hoàn (mã: VHC), Công ty cổ phần Nam Việt (mã: ANV), Thép Nam Kim (NKG), Công ty cổ phần Phát triển Hạ tầng Kỹ thuật (Becamex, IJC), Công ty cổ phần Tập đoàn Container Việt Nam (mã: VSC), Công ty cổ phần Long Hậu (mã: LHG)…

Có rất nhiều nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu vốn hóa thị trường nhỏ, vì nó mang lại một số ưu điểm đáng chú ý mà các công ty lớn không thể so sánh.

Nhìn chung, những công ty vốn hóa thị trường lớn, hay được biết đến với tên cổ phiếu blue-chip, cung cấp cho các nhà đầu tư một triển vọng ổn định và mạnh mẽ. Họ thường là những công ty lâu đời, rất thận trọng trong cả hoạt động và chiến lược. Nhưng những thuộc tính này lại gây trở ngại cho các công ty lớn trong việc phát triển nhanh chóng.

Các công ty vốn hóa nhỏ có xu hướng xông xáo hơn nhiều so với những công ty lớn. Họ hăm hở tìm kiếm các cơ hội thị trường mới và quan tâm đến sự phát triển nhanh chóng.

Điều này dễ dàng thực hiện hơn vì họ có thể cung cấp một sản phẩm hoặc dịch vụ không giống như những gì đã có trên thị trường hiện tại.

Và việc làm này cho phép các công ty vốn hóa nhỏ phát triển nhanh hơn so với các công ty lớn, từ đó các nhà đầu tư của họ sẽ hưởng lợi.

Tuy nhiên, nhóm các công ty này cũng có những nhược điểm mà các nhà đầu tư cân nhắc. Ngoài việc cổ tức mang lại cho nhà đầu tư không ổn định thì các mục tiêu tăng trưởng của các công ty này không phải lúc nào cũng thành hiện thực.

Cùng một kỳ vọng thị trường có thể đẩy giá cổ phiếu vốn hóa nhỏ lên cao và cũng có thể khiến giá hạ thấp lại. Điều này làm cho giá chứng khoán của các công ty nhỏ biến động hơn so với các công ty lớn. Nếu nhà đầu tư có khả năng chịu đựng rủi ro biến động giá và thiếu cổ tức, thì họ có thể nhận được lợi nhuận từ loại cổ phiếu này.

Các công ty nhỏ tập trung vào việc tăng thị phần nhiều hơn so với công ty lớn. Trong thực tế, một số công ty lớn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư phù hợp, và phải trả cho các cổ đông một phần lớn lợi nhuận dưới hình thức cổ tức. Trái lại, các công ty vốn hóa nhỏ thường thu về lợi nhuận và tái đầu tư tiền cho việc kinh doanh của mình.