Nâng cao chất lượng chuyển giao công nghệ: Cách nào?
Từ 2010-2017, có 115 hợp đồng chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam, với tổng giá trị ước tính khoảng 447.000 tỷ đồng. Trong đó, riêng 02 hợp đồng chuyển giao công nghệ của Tập đoàn Samsung thực hiện năm 2017 có giá trị khoảng 323.000 tỷ đồng.
2010-2017: Đã có 115 hợp đồng chuyển giao công nghệ của nước ngoài vào Việt Nam
Trong thời gian từ 2011 đến nay, Bộ Khoa học và Công nghệ đã tham gia có ý kiến về công nghệ đối với 165 dự án đầu tư, trong đó có 74 dự án đầu tư nước ngoài.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017, có 115 hợp đồng chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam, với tổng giá trị các hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký ước tính khoảng 447.000 tỷ đồng. Trong đó, riêng 02 hợp đồng chuyển giao công nghệ của Tập đoàn Samsung thực hiện năm 2017 có tổng giá trị khoảng 323.000 tỷ đồng.
Có thể khẳng định, hiệu ứng các ngành nghề mới, công nghệ mới của các doanh nghiệp FDI là rất lớn, nhờ đó nhiều ngành kinh tế của Việt Nam đã có công nghệ tiên tiến so với khu vực cũng như thế giới như ngành dầu khí, điện tử, viễn thông.
Chuyển giao công nghệ chưa như kỳ vọng
Tuy nhiên, cần thấy rằng, việc chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại của nước ta. Mặc dù các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam phần lớn có trình độ bằng hoặc cao hơn công nghệ sẵn có ở trong nước, nhưng mới chỉ đạt mức trung bình hoặc trung bình tiên tiến so với các nước trong khu vực.
Công nghệ được chuyển giao theo các dự án FDI chủ yếu do lợi ích của nhà đầu tư, nên có tình trạng gây ô nhiễm môi trường, phát thải nhiều khí các bon. Thực tế cho thấy, có khoảng 80% dự án FDI sử dụng công nghệ trung bình của thế giới, 14% ở mức thấp và lạc hậu và chỉ 5-6% sử dụng công nghệ cao.
Theo kết quả điều tra hàng năm của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các doanh nghiệp FDI chỉ mua khoảng 26,6% thiết bị, đầu vào từ doanh nghiệp Việt, còn lại là nhập khẩu và nhập từ công ty mẹ.
Biểu đồ miêu tả chuyển giao công nghệ tại các dự án FDI
Nguyên nhân xuất phát từ loại hình hoạt động, trước đây có nhiều mô hình liên doanh giữa FDI và tư nhân, hiện nay gần như doanh nghiệp FDI là doanh nghiệp100% vốn đầu tư nước ngoài. Điều này sẽ hạn chế việc chuyển giao công nghệ tiên tiến cho doanh nghiệp nội như kỳ vọng và cam kết.
Chính vì thế, mực dù trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh công nghiệp của UNIDO năm 2016, Việt Nam đứng thứ 50 trên tổng số 141 nước được xếp hạng, tăng 44 bậc so năm 1990; tuy vậy, trong ASEAN-5 Việt Nam chỉ đứng trên Philipines (hạng 53).
Về chỉ số giá trị gia tăng công nghiệp chế biến/người (MVA), Việt Nam tuy tăng từ 173,6 USD năm 2009 lên 235,6 USD năm 2013, nhưng đứng thứ 101 trong tổng số 143 nước (Singapore thứ 1, Malaysia thứ 41, Thái Lan thứ 49); nếu không đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, thì cần khoảng 20 năm mới có thể đạt mức 1.000 USD của các nước công nghiệp phát triển.
Cần kiểm soát tốt việc nhập khẩu công nghệ
Cơ sở pháp lý cho công tác kiểm soát nhập khẩu công nghệ tại các dự án đầu tư được thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư năm 2014, Luật Đầu tư công năm 2014, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, Luật Xây dựng năm 2014 với mục tiêu ngăn ngừa nhập khẩu công nghệ lạc hậu, tác động xấu đến môi trường vào Việt Nam thông qua các dự án đầu tư.
Việc kiểm soát thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng dần được siết chặt. Các văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực này như: Quyết định số 46/2001/QÐ-TTg; Nghị định số 12/2006/NÐ-CP; Thông tư số 23/2015/TT-BKH&CN. Thông tư số 23/2015/TT-BKH&CN đưa ra quy định máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng phải đáp ứng điều kiện tuổi thiết bị không quá 10 năm và đã được sản xuất phù hợp quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN), tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) hoặc tiêu chuẩn G7 về an toàn, tiết kiệm năng lượng và môi trường. So với quy định cũ trước đây, việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ cũ đã thông thoáng hơn khi nâng tuổi thiết bị được phép nhập khẩu thêm 5 năm.
Việc ban hành Thông tư số 23 đã góp phần ngăn chặn việc nhập khẩu vào nước ta các loại máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ đã sử dụng lạc hậu, kém chất lượng, tiêu tốn nhiều năng lượng, nguyên vật liệu và gây ô nhiễm môi trường.
Tuy vậy, công tác kiểm soát nhập khẩu các sản phẩm này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, trước đây, việc thẩm định về công nghệ tương ứng với giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư và giai đoạn quyết định đầu tư chưa được quy định rõ. Đặc biệt, là chưa có cơ chế quản lý nhập khẩu với công nghệ ngoài Danh sách hạn chế nhập khẩu.
Để tăng cường công tác thẩm định công nghệ dự án đầu tư, Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 đã dành một Chương quy định về công tác này, trong đó bổ sung các quy định, như: Mở rộng đối tượng dự án đầu tư cần phải thẩm định/có ý kiến về công nghệ trong từng giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư; Biện pháp quản lý đối với trường hợp chủ đầu tư điều chỉnh, thay đổi nội dung công nghệ đã được thẩm định; Hoạt động kiểm tra, giám sát trong quá trình triển khai, thực hiện; Nội dung giải trình về công nghệ và nội dung thẩm định về công nghệ tương ứng với từng giai đoạn quyết định chủ trương và giai đoạn quyết định đầu tư dự án; Trách nhiệm của các cơ quan trong việc thẩm định hoặc có ý kiến về công nghệ.
Trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ đề xuất, điều chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan để có hành lang pháp lý đồng bộ về công tác thẩm định công nghệ trong dự án đầu tư.
Đặc biệt, Bộ này cho rằng, cần xây dựng chính sách nhập khẩu công nghệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội.