Nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế tư nhân Việt Nam trong điều kiện hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0

ThS. LÊ QUỐC - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Tạp chí Lý luận chính trị số 9/2018)

Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề sống còn của kinh tế tư nhân Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

 

Muốn vậy, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân doanh nghiệp, các cấp, các ngành cần: quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân; xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân nghiên cứu, ứng dụng thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 vào sản xuất kinh doanh; xây dựng thương hiệu, tạo uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế; đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước theo hướng kiến tạo môi trường đầu tư và kinh doanh cho kinh tế tư nhân phát triển…

 

 

 

Sau hơn 32 năm đổi mới, kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Kể từ sau Đại hội X, với chủ trương khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế tư nhân không bị hạn chế về quy mô, thì kinh tế tư nhân đã thay đổi mạnh mẽ, từ chỗ chỉ rải rác vài doanh nghiệp với nguồn lực tài chính nhỏ, không đáng kể, đã phát triển thành hơn 700 nghìn doanh nghiệp với nguồn lực tài chính lên đến hàng triệu tỷ đồng, trong đó có doanh nghiệp tư nhân đã lớn mạnh với tổng tài sản trên hàng tỷ USD. Kinh tế tư nhân đã liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 39-40% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, huy động một lượng lớn nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh(1)... Chất lượng hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi căn bản, thể hiện qua các tiêu chí như: số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh tăng nhanh; quy mô vốn, doanh thu, lao động không ngừng tăng, các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động như lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận trên vốn đầu tư, lợi nhuận trên vốn kinh doanh không ngừng tăng.  

Bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và Cách mạng công nghiệp 4.0, để có thể phát triển và cạnh tranh với các công ty trên thế giới, kinh tế tư nhân Việt Nam cần nâng cao năng lực cạnh tranh không chỉ trên thị trường trong nước mà cả trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn có nhiều hạn chế, cụ thể là:

Kết quả kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân còn chưa tốt; thị phần sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế không lớn; chất lượng sản phẩm chưa cao. Theo Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam năm 2015 do VCCI công bố, tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân bị thua lỗ trong giai đoạn 2007-2014 dao động trong khoảng từ 21,7% - 45,4%, và đặc biệt cao trong các năm 2011, 2013 và 2014. Bên cạnh đó, số doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động cũng tăng liên tục trong 3 năm gần đây. Năm 2015, cả nước có 71.391 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động, tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2014. Từ năm 2016 đến nay, do nền kinh tế có xu hướng phục hồi nên chất lượng hoạt động của các cơ sở sản xuất kinh doanh có sự thay đổi nhưng không thực sự mạnh mẽ. Điều này cho thấy, năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân không cao.

Năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân thấp. Thực tế, năng suất lao động bình quân của kinh tế tư nhân Việt Nam giai đoạn 2011-2015 mới đạt 38-39 triệu đồng/người, trong khi của doanh nghiệp FDI ở Việt Nam là 357-358 triệu đồng/người(2).

Trình độ và năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam còn hạn chế. Hiện tại, phần lớn nhân sự cao cấp tại các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam chưa được đào tạo về quản trị kinh doanh một cách bài bản, chưa gắn với thực tế sản xuất kinh doanh, nhất là trình độ kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế ở mức cao. Điều này dẫn đến thiếu chiến lược kinh doanh mang tính quốc tế, sản phẩm không đa dạng, khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ chưa cao, chưa đáp ứng tốt thị hiếu người tiêu dùng, giá cả chưa hợp lý. Các yếu tố khác như quảng cáo, tiếp thị, xây dựng thương hiệu, tổ chức, quản lý mạng lưới phân phối... chưa được quan tâm. Khả năng hội nhập của các doanh nghiệp tư nhân với thị trường quốc tế chưa cao. Hiện chỉ có ít doanh nghiệp tư nhân đang đứng vững trên thị trường, còn phần nhiều doanh nghiệp đang hoạt động cầm cự sau khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới.

Năng lực công nghệ của các doanh nghiệp tư nhân còn thấp. Số lượng doanh nghiệp áp dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất, kinh doanh không nhiều. Nhiều doanh nghiệp có hệ thống máy móc thiết bị lạc hậu so với trình độ khu vực khoảng 2 đến 3 thập kỷ và đi sau khoảng 2-3 thế hệ công nghệ. Công nghệ sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, tiêu tốn nguyên, nhiên liệu, ảnh hưởng xấu tới môi trường trong khi chất lượng và mẫu mã sản phẩm hàng hóa dịch vụ còn hạn chế.

Quy mô sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam còn nhỏ bé: có trên 96% là doanh nghiệp nhỏ, chỉ có 2% doanh nghiệp quy mô vừa, 2% doanh nghiệp lớn và trong đó, có khoảng 95% số chủ thể kinh tế tư nhân là các hộ gia đình, cá thể(3). Vốn đầu tư ban đầu của nhóm doanh nghiệp này rất nhỏ cả về số tương đối và số tuyệt đối: vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp tư nhân thấp, chỉ khoảng trên 8 tỷ đồng. Thời gian vừa qua, tổng lượng vốn đầu tư của khu vực doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, tuy nhiên, so với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì vốn bình quân của doanh nghiệp tư nhân vẫn thấp hơn rất nhiều. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân.   

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là:

Tư duy về phát triển kinh tế tư nhân chưa được thực sự đổi mới. Nhiều nhận thức về vị trí, vai trò của khu vực kinh tế tư nhân chưa nhất quán, doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự được coi trọng. Mặc dù đã có Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng trong thực tiễn quản lý, điều hành vẫn còn chưa được đồng bộ, thông suốt; vẫn chưa thực sự cởi trói để doanh nghiệp tư nhân có thể phát triển. Những “ưu ái” vẫn được ưu tiên dành cho khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp tư nhân ít được tiếp cận với những chính sách hỗ trợ và các chương trình ưu đãi của Chính phủ; ít được hỗ trợ về thông tin thị trường trong và ngoài nước, họ thường phải tự vươn lên, làm ăn theo kinh nghiệm. Điều này đã khiến cho các doanh nghiệp tư nhân luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn(4).

Môi trường kinh doanh chưa thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Tiến trình cải cách thể chế kinh tế diễn ra chậm chạp, môi trường cạnh tranh chưa bình đẳng. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, cơ chế xin - cho còn diễn ra ở nhiều nơi. Cơ chế tiếp cận vốn vay và các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân bao gồm các hỗ trợ pháp lý, chế độ thông tin, hỗ trợ đào tạo... chưa được quan tâm. Nhiều điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành được các Bộ, ngành đặt ra đang cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đến nay có khoảng 9.339 quy định kiểm tra chuyên ngành, nhưng mới bỏ được 606 quy định (chiếm 6,5%)(5).

Chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Vấn đề lớn hiện nay là mức độ kỹ năng của người lao động không đáp ứng được yêu cầu đặt ra của các doanh nghiệp. Theo một số liệu điều tra, có khoảng 9% tổng số các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng các lao động có kỹ năng phù hợp và 67% trong số các doanh nghiệp này cho rằng nguyên nhân chính là do thiếu các lao động có đủ kỹ năng như yêu cầu. Hơn 70% các doanh nghiệp quy mô nhỏ và vừa và các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn cho rằng, nguyên nhân chính của khó khăn trong tuyển dụng là do thiếu lao động có kỹ năng(6).

Ngoài ra, còn có những nguyên nhân thuộc về phía doanh nghiệp tư nhân như: trình độ quản trị hạn chế, khả năng thích ứng với môi trường cạnh tranh chưa cao, việc vi phạm pháp luật trong sản xuất kinh doanh, đã ảnh hưởng đến uy tín, thương hiệu của khu vực doanh nghiệp này.

Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đề ra mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân: phấn đấu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp, đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp, với tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, tỷ trọng đóng góp của kinh tế tư nhân vào GDP đạt khoảng 50% vào năm 2020, khoảng 55% vào năm 2025 và 60-65% năm 2030 và năng suất lao động của kinh tế tư nhân tăng bình quân 4-5%/năm trong giai đoạn 2016-2025(7). Để có thể đạt được những mục tiêu này, một trong những yếu tố quyết định chính là nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân.

Hơn nữa, trước xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thế giới đang đổi thay nhanh chóng, nhiều doanh nghiệp trên giới có sức cạnh tranh to lớn, nhiều phát minh sáng chế, nhiều tiện ích và nhiều cái mới đang thay thế cái cũ, cái lạc hậu từng ngày, từng giờ. Tư duy, nhận thức, thị hiếu, sở thích, nhu cầu, lối sống và phong cách sống của con người cũng đang có nhiều biến đổi. Phương thức quản lý và sản xuất kinh doanh, thực hiện các loại hình dịch vụ cũng thay đổi nhiều nhờ internets vạn vật, không gian mạng, tự động, robots...

Như vậy, để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển kinh tế tư nhân theo mục tiêu đề ra, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, quán triệt tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của kinh tế tư nhân trong phát triển của nền kinh tế, đồng thời tạo điều kiện và môi trường tốt nhất cho kinh tế tư nhân phát triển. Đổi mới mạnh mẽ thể chế kinh tế theo hướng tôn trọng tự do kinh doanh, tự do sáng tạo, tự do cá nhân và quyền tài sản. Xóa bỏ mọi rào cản về tư duy và nhận thức đang cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân, xây dựng cơ chế, chính sách thông thoáng, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. 

Thứ hai, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ và miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp tư nhân có tiến hành nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Có cơ chế và chính sách phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đón đầu áp dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Tạo một môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân trên cơ sở bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

Thứ ba, có cơ chế, chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân có thể thuận lợi tiếp cận với thị trường thế giới. Hỗ trợ và khuyến khích kinh tế tư nhân xây dựng thương hiệu, phát triển giá trị cốt lõi, tạo uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. Xây dựng hành lang pháp lý để bảo vệ các doanh nghiệp tư nhân phát triển thương hiệu, chỗ đứng, uy tín của mình về chất lượng sản phẩm, hiệu quả dịch vụ và tiện ích các hoạt động, bảo đảm doanh nghiệp tư nhân có chỗ đứng vững chắc trên thị trường trong nước và quốc tế.

Thứ tư, đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân theo hướng kiến tạo môi trường đầu tư và kinh doanh cho kinh tế tư nhân phát triển. Xóa bỏ mọi rào cản và các quy định về kiểm tra chuyên ngành gây khó dễ và gây bất bình đẳng đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân. Coi tạo điều kiện cho phát triển kinh tế tư nhân là một thước đo về hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm định hướng, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển cho kinh tế tư nhân, không cho phép bất kỳ cơ quan, cá nhân nào gây khó khăn, cản trở hoạt động, cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Thứ năm, để nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế tư nhân cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của các tổ chức chính trị - xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân là khâu đột phá, định hướng cho kinh tế tư nhân có thể phát triển. Trên cơ sở đó, Nhà nước cụ thể hóa thể chế kinh tế, cơ chế và chính sách để kinh tế tư nhân có môi trường thực sự cho phát triển; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện theo pháp luật của các cơ quan công quyền và của các doanh nghiệp tư nhân theo hướng phát triển và vì sự giàu mạnh của nền kinh tế.

Thực tế đã chứng minh, sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thế giới ngày càng khốc liệt, phức tạp và đa dạng trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và dưới sự tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Doanh nghiệp tư nhân Việt Nam muốn phát triển được, không có cách nào khác là phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Đây là một con đường duy nhất đúng để phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam và để nền kinh tế Việt Nam có thể phát triển ngày một giàu mạnh.