Ngành công nghiệp thực phẩm từng bước chiếm lĩnh thị trường nội địa

Theo A.N/dangcongsan.vn

Ngành công nghiệp thực phẩm (CNTP) của Việt Nam đang có xu hướng tăng trưởng mạnh, từng bước cung ứng nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao, chiếm lĩnh thị trường nội địa và gia tăng xuất khẩu.

Ảnh minh họa (Nguồn: Q.N)
Ảnh minh họa (Nguồn: Q.N)

Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương), CNTP là một trong những ngành có tiềm năng phát triển rất lớn tại Việt Nam, chiếm khoảng hơn 20% doanh thu thuần sản xuất, kinh doanh các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hàng năm. Số lượng doanh nghiệp trong ngành sản xuất thực phẩm và đồ uống tại Việt Nam tăng nhanh, đã hình thành một số doanh nghiệp tập đoàn lớn trong nước có uy tín, thương hiệu mạnh, được đầu tư thiết bị tiên tiến, công nghệ hiện đại như: Vinamilk, TH Truemilk, Nutifood, Masan, Sabeco, Habeco, Kinh Đô, Tân Hiệp Phát, Bibica, Hải Hà…

Cùng với quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam, nhiều hãng thực phẩm và đồ uống nổi tiếng trên thế giới cũng đã đầu tư và phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam như: Cocacola, Pepsi, Heineken, Tiger, Carlsberg, Saporo, Orion, FrieslandCampina, Nestle…

Đáng chú ý, năm 2021, ngành sữa vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng trong điều kiện khó khăn của dịch bệnh, sản lượng sản xuất sữa tươi ước đạt 1,762 tỷ lít tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng sữa bột ước đạt 150 ngàn tấn, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2020.

Cũng trong năm 2021, Việt Nam xuất khẩu sữa và sản phẩm từ sữa sang nhiều nước trên thế giới đạt gần 300 triệu USD trong đó lớn nhất là thị trường Irắc (chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu sữa). Đặc biệt, Vinamilk có 12 trang trại trên cả nước, trong đó, có 2 trang trại được xây dựng theo tiêu chuẩn organic châu Âu và 10 trang trại theo chuẩn Global G.A.P; Tập đoàn TH đã đầu tư khoảng 2,7 tỉ USD cho Tổ hợp Chăn nuôi bò sữa, chế biến sữa công nghệ cao và một số dự án về thực phẩm tại Liên bang Nga. Bên cạnh sự đầu tư, xây dựng, cải tiến, đổi mới kỹ thuật, công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường của các doanh nghiệp trong ngành thì sự phát triển của các chuỗi bán hàng hiện đại, thu nhập của người dân tăng và nhu cầu đối với các sản phẩm sữa có giá trị cao cũng được dự báo sẽ tăng lên.

Riêng đối với sản lượng sản xuất ngành bia, theo số liệu của Cục Công nghiệp năm 2021 đạt khoảng 4.050 triệu lít, giảm 7,7% so với năm 2020 nguyên nhân là do tiếp tục chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và sự thay đổi hành vi người tiêu dùng từ Nghị định số 100/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt khiến lượng tiêu thụ sụt giảm mạnh.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh Việt Nam ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do, các hãng bia, rượu, nước giải khát nước ngoài có cơ hội gia nhập vào thị trường Việt Nam tạo áp lực cạnh tranh gay gắt lên các doanh nghiệp trong ngành, đặc biệt là trong phân khúc cao cấp. Theo đó, tỷ suất sinh lời và rủi ro tiềm tàng của ngành bia Việt Nam tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính là biến động giá nguyên liệu nhập khẩu (do ngành bia 70% nguyên liệu là nhập khẩu); cạnh tranh trong ngành làm gia tăng chi phí sản xuất, chi phí quảng cáo; ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp và các chính sách của Luật Phòng chống tác hại của rượu, bia tiếp tục ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ rượu, bia.

Dự báo trong những năm tới, ngành CNTP vẫn chịu thách thức bởi sự chuyển đổi thị trường và xu hướng tiêu dùng mới, nên gia tăng giá trị sản phẩm là yêu cầu tất yếu...Để tạo điều kiện cho ngành CNTP phát triển bền vững, Chính phủ, Bộ Công Thương và các ngành liên quan đã và đang tiếp tục ban hành những chính sách khuyến khích phát triển phù hợp, cụ thể CNTP Việt Nam cần phát triển sản phẩm theo chuỗi giá trị nâng cao giá trị sản phẩm.

Đối với ngành sữa, nguyên liệu sữa trong nước mới đáp ứng được trên 40% nhu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong nước, hiện nay khoảng 60% nguyên liệu ngành sữa là nhập khẩu từ các nước. Theo đó, thời gian tới cần tiếp tục mở rộng, đầu tư xây mới trang trại và quy mô đàn bò sữa theo hướng hiện đại, khép kín để nâng cao tỷ lệ nguyên liệu trong nước, từng bước chủ động nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, giảm dần tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu. Điều này, một mặt sẽ tạo nên sức cạnh tranh đối với các doanh nghiệp sữa trong nước, mặt khác lại tạo động lực để các doanh nghiệp nội địa cải tiến công nghệ và quy trình sản xuất nhằm sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá cả hợp lý để đủ sức cạnh tranh. “Ngoài ra, tăng cường tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu đặc biệt là sang Trung Quốc, Trung Đông và các nước ASEAN, châu Âu”- báo cáo của Cục Công nghiệp nêu rõ.

Ở góc độ doanh nghiệp, đại diện lãnh đạo Nafoods Group cho biết, hiện doanh nghiệp này xuất khẩu 60 quốc gia trên thế giới và tăng trưởng doanh thu hơn 40% trong 2 năm qua. Kinh nghiệm cho thấy, muốn vượt qua thách thức, doanh nghiệp cần định vị lại năng lực cốt lõi, hoạch định lại chiến lược kinh doanh, vận hành, quản trị công ty... Riêng đối với ngành công nghiệp thực phẩm thì chế biến sâu là giải pháp hiệu quả giúp thích ứng với thị trường, cải thiện giá trị gia tăng sản phẩm và bán với giá cao hơn.

Đối với mặt hàng nước giải khát, các doanh nghiệp trong ngành cần tập trung đầu tư, nghiên cứu phát triển các sản phẩm mới đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng nguyên liệu sạch, hướng đến sử dụng các nguyên liệu sẵn có trong nước nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Đồng thời, tăng cường giám sát bảo hộ thương hiệu, nhãn mác, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm, đấu tranh chống hàng nhái, hàng giả để bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Hiện tại, Việt Nam đã tham gia ký kết các Hiệp định thương mại tự do điều này mang lại nhiều lợi thế về thị trường cho doanh nghiệp ngành sản xuất, chế biến thực phẩm phát triển. Do đó, để nhanh chóng nắm bắt được cơ hội, cũng như tăng khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp trong nước cần chú trọng đầu tư mạnh thiết bị, công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng và xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm. Đồng thời, các đơn vị liên quan cần xây dựng kế hoạch quy hoạch vùng nguyên liệu thông qua những giải pháp căn cơ theo hướng tăng hiệu quả liên kết giữa các tỉnh, thành phố, giữa nông dân – doanh nghiệp sản xuất – nhà quản lý để tạo ra vùng nguyên liệu ổn định.