Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới kinh tế nông nghiệp Việt Nam
Biến đổi khí hậu đang đặt ra những thách thức to lớn đối với các quốc gia, nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Đánh giá của các tổ chức quốc tế, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Với nền nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như hiện nay, Việt Nam cần chủ động, thường xuyên đánh giá và dự báo tác động của biến đổi khí hậu, để kịp thời có những giải pháp hỗ trợ kinh tế nông nghiệp phát triển bền vững.
Dự báo những tác động của biến đổi khí hậu
Theo Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (BĐKH), các biểu hiện của BĐKH gồm: (1) Nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng lên; (2) Sự dâng cao mực nước biển do giãn nở vì nhiệt và băng tan; (3) Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển; (4) Sự di chuyển của các đới khí hậu trên các vùng khác nhau của trái đất; (5) Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hóa khác; (6) Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thủy quyển, sinh quyển và địa quyển. Trong các biểu hiện trên, sự gia tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu và mực nước biển dâng thường được coi là 2 biểu hiện chính của BĐKH.
Những tổn thất kinh tế do tác động của BĐKH cộng với các chi phí khắc phục thiệt hại làm giảm mức tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia và trên phạm vi toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của Liên Hợp Quốc công bố mới đây nhận định, đến năm 2030 nền kinh tế toàn cầu có thể mất hơn 2.000 tỷ USD do BĐKH và tình trạng nóng dần lên của trái đất. Số liệu của Tổ chức phi chính phủ Oxfam (Anh) cho thấy, các nền kinh tế đang phát triển có thể bị thiệt hại tới 1.700 tỷ USD/năm vào năm 2050.
Ở Việt Nam, trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình đã tăng khoảng 2-3oC và mực nước biển đã dâng thêm khoảng 20cm. Ước tính, đến cuối thế kỷ 21, so với trung bình thời kỳ 1980-1999, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam có thể tăng thêm 2,3oC, lượng mưa hàng năm tăng khoảng 5% và mực nước biển có thể dâng thêm 75cm (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2012).
Là nước nông nghiệp (nông nghiệp đóng góp khoảng 20% GDP), phần đông người nghèo sống dựa vào nông nghiệp và đánh bắt thủy sản, nên Việt Nam được Tổ chức Phát triển của Liên Hợp Quốc đánh giá là 1 trong 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất và tổn thương trực tiếp do quá trình BĐKH. Với nền nông nghiệp còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên như hiện nay, Việt Nam cần chủ động đánh giá và dự báo tác động của BĐKH, để kịp thời có những giải pháp ứng phó, phát triển kinh tế nông nghiệp phù hợp và bền vững.
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam
Các tác động của BĐKH như nước biển dâng, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, thời tiết cực đoan... đang hiện hữu ngày càng nhiều hơn, rõ rệt hơn, gây thiệt hại cho kinh tế nông nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung, cụ thể:
Thứ nhất, lũ lụt và nước biển dâng sẽ làm mất đất canh tác trong nông nghiệp. Nếu mực nước biển dâng cao thêm 1m mà không có biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, thì khoảng 40% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), 11% diện tích Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập. Lũ lụt sẽ khiến gần 50% diện tích đất nông nghiệp vùng ĐBSCL bị ngập chìm không còn khả năng canh tác. Theo phân tích của Viện Tài nguyên thế giới về ảnh hưởng của lũ lụt đến GDP, Việt Nam đứng thứ 4 trong số 164 quốc gia được khảo sát về tác hại nghiêm trọng của lũ lụt đến toàn nền kinh tế; làm thiệt hại 2,3% GDP của Việt Nam mỗi năm…
Tính riêng năm 2018, thiên tai xảy ra liên tiếp trên các vùng miền cả nước (với 13 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 212 trận dông, lốc sét; 14 trận lũ quét, sạt lở đất; 9 đợt gió mạnh trên biển; 4 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt nắng nóng, 23 đợt không khí lạnh; 30 đợt mưa lớn trên diện rộng; lũ lớn tại thượng nguồn sông Cửu Long sau 7 năm kể từ 2011, triều cường vượt mốc lịch sử tại các tỉnh Nam Bộ, sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển nghiêm trọng tại miền Trung và ĐBSCL…) đã gây thiệt hại về kinh tế ước tính là 20.000 tỷ đồng, làm 218 người chết và mất tích.
Thứ hai, tình trạng xâm nhập mặn ở khu vực ven biển cũng sẽ làm thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Một phần diện tích đáng kể đất trồng trọt ở vùng ĐBSH và ĐBSCL sẽ bị nhiễm mặn vì 2 đồng bằng này đều là những vùng đất thấp so với mực nước biển. Xâm nhập mặn làm cho diện tích đất canh tác giảm, từ đó hệ số sử dụng đất có thể giảm từ 3-4 lần/năm xuống còn 1-1,5 lần/năm. Ngập mặn sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở vùng ĐBSCL. Nếu nước biển dâng cao thêm 1m thì khoảng 1,77 triệu ha đất sẽ bị nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích đất ở ĐBSCL và ước tính rằng, có khoảng 85% người dân ở vùng ĐBSCL cần được hỗ trợ về nông nghiệp.
Theo kết quả nghiên cứu của Viện Môi trường nông nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), BÐKH làm giảm năng suất một số loại cây trồng chủ lực. Cụ thể, năng suất lúa vụ xuân sẽ giảm 0,41 tấn/ha vào năm 2030 và 0,72 tấn vào năm 2050. Năng suất cây ngô có nguy cơ giảm 0,44 tấn/ha vào năm 2030 và 0,78 tấn vào năm 2050… Dự báo đến năm 2100, khu vực ĐBSCL có nguy cơ bị ngập 89.473 ha, tương ứng khu vực này sẽ mất khoảng 7,6 triệu tấn lúa/năm nếu nước biển dâng 100 cm. Khi đó, Việt Nam có nguy cơ thiếu lương thực trầm trọng, gia tăng tỷ lệ đói nghèo...
Thứ ba, nhiệt độ tăng, hạn hán sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố của cây trồng, đặc biệt làm giảm năng suất. Cụ thể là năng suất lúa của vụ Xuân có xu hướng giảm mạnh hơn so với năng suất lúa của vụ mùa; năng suất ngô vụ Đông có xu hướng tăng ở Đồng bằng Bắc Bộ và giảm ở Trung Bộ và Nam Bộ.
Theo dự báo, nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời, thì hiệu quả năng suất lúa xuân ở vùng ĐBSH có thể giảm 3,7% vào năm 2020 và giảm tới 16,5% vào năm 2070; năng suất lúa mùa sẽ giảm 1% vào năm 2020 và giảm 5% vào năm 2070. Mất đất canh tác trong nông nghiệp và năng suất cây trồng suy giảm sẽ đặt ra những thách thức và đe dọa đời sống của nông dân, vấn đề xuất khẩu gạo và an ninh lương thực quốc gia đối với một quốc gia mà nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân như Việt Nam (nông nghiệp chiếm 52,6% lực lượng lao động và 20% GDP của cả nước…)
Thứ tư, đối với ngành Thủy sản: Việt Nam hiện có khoảng 480.000 người trực tiếp tham gia vào đánh bắt hải sản; 100.000 người làm việc ở ngành chế biến thủy sản và khoảng 2.140.000 người tham gia vào các dịch vụ nghề cá. Các sinh kế thủy sản, bao gồm đánh bắt và nuôi trồng, là những sinh kế phụ thuộc vào nguồn nước và sự phong phú của nguồn lợi ven biển, là một trong những lĩnh vực nhạy cảm nhất và dễ bị tổn thương nhất trước tác động của BĐKH.
Thứ năm, đối với tài nguyên rừng và hệ sinh thái: Thời gian qua, do những nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học, các hệ sinh thái, đặc biệt là các hệ sinh thái rừng bị suy thoái trầm trọng: (1) Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặt ven biển tác động xấu đến hệ sinh thái rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở ĐBSCL; (2) Nhiệt độ và lượng nước bốc hơi tăng làm hạn hán kéo dài sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng sinh trưởng của các loài thực vật và động vật rừng.
Quần thể các loài động thực vật rừng đặc dụng và quý hiếm sẽ ngày càng suy kiệt và nguy cơ tuyệt chủng. Nhiệt độ tăng và hạn hán kéo dài sẽ làm tăng nguy cơ cháy rừng, nhất là các rừng trên đất than bùn, vừa gây thiệt hại tài nguyên sinh vật, vừa tăng lượng phát thải khí nhà kính, làm gia tăng BĐKH và tạo điều kiện cho một số loài sâu bệnh hại rừng phát triển; (3) Do BĐKH, hàng năm Việt Nam mất đi một diện tích tương đối lớn do cháy rừng, sâu bệnh và mức độ cháy ở các giai đoạn có khác nhau…
Một số vấn đề đặt ra
Từ thực tiễn có thể khẳng định rằng, kinh tế nông nghiệp luôn giữ vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, nghiên cứu về "Tác động của BĐKH tới tăng trưởng và phát triển kinh tế ở Việt Nam" của Cơ quan Phát triển quốc tế Đan Mạch, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Đại học Copenhaghen và Viện Nghiên cứu kinh tế phát triển Thế giới dự báo đến năm 2050, nhiệt độ của Việt Nam sẽ tăng lên khoảng 1,5 đến 2oC, điều này ảnh hưởng sâu sắc tới kinh tế nông nghiệp Việt Nam.
Theo giả định của GS. Channing Arndt, Đại học Copenhaghen, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với tốc độ 5,4%/năm trong giai đoạn 2007-2050 với đóng góp của nông nghiệp trong GDP giảm từ 16% xuống còn 7,6%. Còn trong giai đoạn 2046 – 2050, tỷ trọng nông nghiệp đóng góp cho nền kinh tế chỉ 7-8% nên tác động của BĐKH là không đáng kể. Tuy nhiên, việc tăng lượng mưa hoặc tăng cường độ mưa sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất của khu vực sản xuất theo thời gian.
Hơn nữa, sự gia tăng của các cơn bão cũng khiến tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giảm sút, nếu tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,4% hàng năm thì tốc độ tăng trưởng khi bị tác động vào khoảng 5,32% - 5,39%. Kịch bản nước biển dâng cho thấy, các tác động ở mức nhẹ nhất nhưng cũng khiến GDP giai đoạn 2046 - 2050 giảm từ 0 - 2,5%. Trong khi đó, vì GDP đến năm 2050 của Việt Nam dự báo lớn hơn 500 tỷ USD nên giá trị thiệt hại do BĐKH lên đến khoảng 40 tỷ USD. Thiệt hại này tương đối lớn và có thể hạn chế được tối đa nếu có chính sách thích ứng phù hợp.
Xác định bảo vệ môi trường, ứng phó và thích nghi với BĐKH là vấn đề có ý nghĩa sống còn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương, ban hành chính sách bảo vệ môi trường như Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 21/1/2009 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Nghị quyết số 24-NQ/TW do Hội nghị Trung ương 7 khóa XI ban hành ngày 3/6/2013 về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.
Nối tiếp quan điểm trên, Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng cũng nhấn mạnh: Tăng cường công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với BĐKH phục vụ phát triển bền vững...”. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011 phê duyệt chiến lược quốc gia về BĐKH. Cùng với đó, vấn đề bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với BĐKH nhằm mục tiêu phát triển bền vững đã được đưa vào kế hoạch phát triển của các ngành, địa phương…
Để các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, đồng thời phát huy được các sáng kiến của người dân trong quá trình ứng phó với BĐKH, góp phần phát triển bền vững kinh tế nông nghiệp Việt Nam, thời gian tới cần lưu ý một số trọng tâm sau:
Một là, nghiên cứu mối quan hệ, tác động qua lại giữa ô nhiễm môi trường, BĐKH và tăng trưởng kinh tế, trong đó đánh giá cụ thể hơn những hoạt động của con người vì mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà làm ô nhiễm môi trường, dẫn tới BĐKH.
Hai là, nâng cao năng lực của nền kinh tế để tăng sức chịu đựng đối với BĐKH qua việc đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới tăng trưởng xanh, đầu tư xanh; cơ cấu lại nền kinh tế, lựa chọn các ngành kinh tế phù hợp để tập trung phát triển; nâng cao tính thiết thực và hiệu quả liên kết vùng trong tổng thể nền kinh tế, chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp ứng phó với BĐKH, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, có năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao; Mở rộng các dịch vụ trong nông nghiệp; Liên kết trong đầu tư, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Xây dựng và phát triển sinh kế thích ứng với BĐKH. Quy hoạch lại hệ thống thủy lợi phù hợp với cơ chế giữ lũ, ngăn mặn linh hoạt hơn và phục vụ nhiều hệ thống canh tác khác nhau, đặc biệt thủy sản và trái cây; Quy hoạch và quản lý nghiêm quy hoạch rừng ngập mặn/ngập lợ đảm bảo cân đối môi trường, sinh thái. Xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường để tạo sinh kế cho người dân phát triển và bảo vệ rừng ngập mặn/ngập lợ; Quy hoạch rõ các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa theo các tiểu vùng và có chế tài thực hiện và quản lý nghiêm quy hoạch…
Bốn là, khảo sát, tổng hợp những sáng kiến của người dân trong việc ứng phó với các hiện tượng BĐKH và tăng cường nguồn lực để hỗ trợ, nâng cao hơn nữa tính chủ động cũng như tính dài hạn trong các biện pháp đó.
Thứ năm, tập trung đầu tư nâng cấp hạ tầng giao thông, nhằm giảm thời gian và chi phí vận chuyển nội vùng (cải thiện hệ thống đường thủy để vận chuyển nông sản, đặc biệt là từ các vùng chuyên canh tới các trung tâm chế biến). Cụ thể, rà soát và điều chỉnh quy hoạch hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ, cảng biển, bổ sung quy hoạch đường sắt để kết nối trong vùng chuyên canh, kết nối các vùng chuyên canh với nhau, kết nối vùng chuyên canh với khu vực chế biến và kết nối với thị trường; tránh việc chia cắt bất hợp lý; Quy hoạch lại khu đô thị và vùng dân cư nông thôn chuyển từ bố trí theo tuyến sang theo cụm và lùi vào phía trong bờ biển/bờ sông để đảm bảo an toàn trước các ảnh hưởng của lũ, nước biển dâng, ngập mặn…
Thứ sáu, đổi mới tổ chức sản xuất và thúc đẩy liên kêt chuỗi giá trị; Nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất, chế biến. Khuyến khích dịch vụ hỗ trợ nông dân tiếp thu và áp dụng khoa học công nghệ, trao quyền cho nông dân, doanh nghiệp tham gia đánh giá và đặt hàng các cơ quan nghiên cứu và khuyến nông; Thúc đẩy xã hội hóa các hoạt động khoa học công nghệ nông nghiệp; phân cấp hoạt động khuyến nông cho các tổ chức nông dân và doanh nghiệp.
Thứ bảy, tiếp tục rà soát để hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật và cơ chế chính sách; xem xét cho thí điểm một số cơ chế chính sách đặc thù cho các vùng chuyên canh; thúc đẩy hợp tác quốc tế để hỗ trợ ngành Nông nghiệp thích ứng với BĐKH và phát triển sinh kế bền vững, cụ thể gồm:
- Chính sách đất đai: Khơi thông thị trường đất đai, thúc đẩy tích tụ, tập trung đất nông nghiệp.
- Chính sách thu hút đầu tư: Tạo động lực mạnh mẽ thu hút đầu tư và khuyến khích phát triển doanh nghiệp vào nông nghiệp thông qua việc kiến tạo cơ chế chính sách khả thi và đáp ứng đúng nhu cầu của doanh nghiệp.
- Chính sách thuế, phí: Cải thiện hệ thống thuế, phí, tạo động lực cho việc áp dụng các mô hình nông nghiệp bền vững, thích ứng với BĐKH.
- Chính sách tín dụng: Đẩy mạnh tín dụng cho vay theo chuỗi giá trị nông nghiệp. Hoàn thiện khung pháp lý để phát triển cung ứng đồng bộ các sản phẩm dịch vụ tài chính mới nhằm tăng khả năng tiếp cận tín dụng với quy mô lớn và dài hạn hơn cho nông dân, trang trại, hợp tác xã và doanh nghiệp trong nông nghiệp, nông thôn.
- Chính sách bảo hiểm: Tiếp tục triển khai các chương trình/mô hình bảo hiểm nông nghiệp đối với các nông sản chủ lực của vùng, từng bước gắn kết giữa bảo hiểm và tín dụng theo chuỗi. Xây dựng chính sách bảo hiểm xã hội đối với lao động phi chính thức.
- Chính sách thương mại: Rà soát, đổi mới và hoàn thiện bộ máy kiểm dịch, đảm bảo an toàn sinh học, vệ sinh dịch tễ đối với hàng xuất nhập khẩu. Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai các chính sách hỗ trợ xây dựng liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp. Xây dựng cơ chế hòa giải tranh chấp trong các hợp đồng bao tiêu nông, lâm, thủy sản nhằm giải quyết các tranh chấp đối với những xung đột phát sinh, tiến tới xây dựng cơ chế chia sẻ giá giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị nông nghiệp để đảm bảo lợi ích của các bên tham gia và phát triển bền vững.
Tài liệu tham khảo:
Chính phủ (2011), Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 5/12/2011, Phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu;
Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012), Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam;
Viện Khoa học Khí tượng Thủy Văn và Môi trường (2011), Tài liệu hướng dẫn đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và xác định các giải pháp thích ứng, NXB Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam;
CIEM, DOE và UN University (2012), Tác động của biến đổi khí hậu tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, NXB Thống kê;
Ngân hàng Thế giới (2010), Báo cáo phát triển và biến đổi khí hậu thế giới;
Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu (2012), biến đổi khí hậu và sinh kế ven biển, Sách tham khảo, Diễn đàn phát triển Việt Nam;
Nguyễn Hồng Quang (2015), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam;
Lê Minh Nhật (2019), Nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, Báo Nhân dân cuối tuần.