Nhân tố ảnh hưởng đến định giá doanh nghiệp nhỏ và vừa
Giá trị doanh nghiệp là tổng hiện giá của tất cả thu nhập mà doanh nghiệp có khả năng mang lại trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp có thể tạo ra thu nhập hay không và độ lớn của thu nhập ở mức độ nào lại tùy thuộc vào các yếu tố như: Tài sản, uy tín kinh doanh, trình độ quản lý... và khả năng thích ứng của doanh nghiệp đối với các yếu tố môi trường. Để kết quả định giá có độ tin cậy cao, trong quá trình định giá, bên cạnh tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc định giá thẩm định viên phải quan tâm đến các nhân tố ảnh hưởng. Mỗi một loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm riêng biệt, do đó khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp thẩm định viên cũng cần quan tâm đến yếu tố mang tính đặc thù này.
Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trên thế giới, khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được hiểu và quy định khác nhau tùy theo từng quốc gia. Các nước căn cứ vào những tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp (DN) và đưa ra quan niệm DNNVV phù hợp với mình. Các tiêu chí để phân loại DN có hai nhóm (tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng).
Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của DN như chuyên môn hóa thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý không cao… Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong các nước APEC, tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. Một số tiêu chí khác thì tùy thuộc vào điều kiện từng nước.
Tại Việt Nam, ngày 20/6/1998, Chính phủ xác định tiêu chí DNNVV theo Công văn số 681/CP-KTN, trong đó quy định DNNVV là những DN có vốn dưới 5 tỷ đồng và có số lao động dưới 200 người, không phân biệt ngành công nghiệp hoặc dịch vụ.
Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNNVV, trong đó định nghĩa: “DNNVV là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
Định giá doanh nghiệp và các bước thực hiện
Định giá DN là việc ước tính bằng tiền với độ tin cậy cao nhất về các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh. Cơ sở của giá trị trong định giá DN là giá trị công bằng, giá trị công bằng trên thị trường, giá trị đầu tư, giá trị đang hoạt động, giá trị thanh lý.
Nhìn chung, quy trình định giá giá trị DN tương tự như quy trình thẩm định giá các tài sản khác, nhưng nội dung cụ thể của các bước cần được điều chỉnh phù hợp với việc thẩm định giá DN. Quy trình thẩm định giá DN gồm có 6 bước:
Bước 1: Xác định vấn đề. Trong bước này cần chú ý các vấn đề sau: Thiết lập mục đích thẩm định giá; Nhận dạng sơ bộ doanh nghiệp cần thẩm định giá: pháp lý, loại hình, quy mô, địa điểm, các cơ sở, chi nhánh, tài sản, sản phẩm, thương hiệu, thị trường; Xác định cơ sở giá trị của thẩm định giá; Xác định tài liệu cần thiết cho việc thẩm định giá.
Bước 2: Lập kế hoạch thẩm định giá. Việc lập kế hoạch thẩm định giá nhằm xác định rõ những bước công việc phải làm và thời gian thực hiện từng bước công việc cũng như toàn bộ thời gian cho việc thẩm định giá.
Nội dung kế hoạch phải thể hiện những công việc cơ bản sau: Xác định các yếu tố cung cầu thích hợp với chức năng, các đặc tính và các quyền gắn liền với DN được mua bán và đặc điểm thị trường; Xác định các tài liệu cần thu thập về thị trường, về DN, tài liệu so sánh; Xác định và phát triển các nguồn tài liệu, đảm bảo nguồn tài liệu đáng tin cậy và phải được kiểm chứng; Xây dựng tiến độ nghiên cứu, xác định trình tự thu thập và phân tích dữ liệu, thời hạn cho phép của trình tự phải thực hiện; Lập đề cương báo cáo kết quả thẩm định giá.
Bước 3: Tìm hiểu DN và thu thập tài liệu. Trong bước này cần lưu ý: Khảo sát thực tế tại DN: Kiểm kê tài sản, khảo sát tình hình sản xuất kinh doanh thực tế của DN; Thu thập thông tin trước hết là các thông tin, tư liệu từ nội bộ DN: Tư liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính - kế toán - kiểm toán, hệ thống đơn vị sản xuất và đại lý, đặc điểm của đội ngũ quản lý điều hành, nhân viên, công nhân…
Ngoài ra, còn chú ý thu thập thông tin bên ngoài DN đặc biệt là thị trường sản phẩm của DN, môi trường kinh doanh, ngành kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh, chủ trương của Nhà nước…
Bước 4: Đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của DN. Cần đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của DN trên các mặt: Sản xuất kinh doanh, thiết bị công nghệ, tay nghề người lao động, bộ máy quản lý và năng lực quản lý, vốn nợ, các chỉ tiêu tài chính, thị trường, môi trường kinh doanh.
Bước 5: Xác định phương pháp thẩm định giá, phân tích số liệu, tư liệu và ước tính giá trị DN. Thẩm định viên về giá DN dựa vào ý kiến, kết quả công việc của thẩm định viên khác hay các nhà chuyên môn khác là cần thiết khi thẩm định giá DN.
Một ví dụ thường thấy là dựa vào kết quả thẩm định giá bất động sản để thẩm định giá các tài sản bất động sản thuộc sở hữu của DN. Khi dựa vào ý kiến, kết quả của thẩm định viên khác hoặc các chuyên gia khác, thẩm định viên về giá DN cần tiến hành các bước thẩm tra để bảo đảm rằng những dịch vụ đó được thực hiện một cách chuyên nghiệp, các kết luận hợp lý và đáng tin cậy.
Bước 6: Phần chuẩn bị báo cáo và lập báo cáo thẩm định giá. Phần chuẩn bị báo cáo và lập báo cáo thẩm định giá DN tương tự như các tài sản khác. Báo cáo kết quả thẩm định giá DN phải nêu rõ: Mục đích thẩm định giá; Đối tượng thẩm định giá; Cơ sở giá trị của thẩm định giá; Phương pháp thẩm định giá; Những giả thiết và những điều kiện hạn chế khi thẩm định giá; Kết quả thẩm định giá; Phạm vi và thời hạn thẩm định giá; Chữ ký và xác nhận của thẩm định viên.
Các phương pháp định giá DN, gồm: Phương pháp tài sản thuần, phương pháp định giá chứng khoán, phương pháp hiện tại hóa lợi nhuận thuần, phương pháp hiện tại hóa dòng tiền thuần, phương pháp Goodwill, phương pháp dựa vào hệ số PER. Trong quá trình vận dụng, mỗi một phương pháp định giá có những thuận lợi cũng như hạn chế nhất định.
Nhân tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp nhỏ và vừa
Môi trường kinh doanh là tổng hợp các yếu tố, các điều kiện có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động kinh doanh của các DN.
Môi trường kinh doanh được cấu thành từ những yếu tố khác nhau, thông thường được phân chia như sau: Môi trường bên ngoài (bao gồm môi trường vĩ mô và môi trường ngành); Môi trường bên trong (bao gồm toàn bộ các quan hệ kinh tế, tổ chức, kỹ thuật nhằm bảo đảm cho DN kết hợp các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm đạt hiệu quả cao).
Môi trường bên ngoài doanh nghiệp
Môi trường vĩ mô: Các yếu tố môi trường vĩ mô gồm: Các yếu tố kinh tế, yếu tố chính trị và luật pháp, yếu tố xã hội, yếu tố tự nhiên, yếu tố công nghệ. Nghiên cứu về môi trường vĩ mô nhằm đánh giá quy mô và tiềm năng thị trường của DN và sự tác động của các tác lực môi trường như chính trị, kinh tế, xã hội… đối với DN.
Nếu dự đoán được xu hướng phát triển của nền kinh tế, có thể dự báo được xu thế phát triển chung của DN. Thẩm định viên cần đánh giá môi trường kinh tế của DN dựa vào các yếu tố sau: Tăng trưởng kinh tế; lãi suất; tỷ giá hối đoái; lạm phát.
Các yếu tố chính trị và luật pháp có ảnh hưởng đến hoạt động của các DN, bao gồm hệ thống các quan điểm, đường lối chính sách của chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, xu hướng ngoại giao của chính phủ, những diễn biến chính trị trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới.
Các khía cạnh hình thành môi trường văn hóa - xã hội như: Những quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, lối sống, về nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống; những quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã hội... có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các họat động kinh doanh của DN.
Các vấn đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài nguyên thiên nhiên cùng với nhu cầu ngày càng lớn đối với các nguồn lực có hạn khiến các DN phải thay đổi các quyết định và biện pháp hoạt động sản xuất kinh doanh.
Môi trường công nghệ cũng là một trong những yếu tố rất năng động, chứa đựng nhiều cơ hội và đe dọa đối với các DN. Những áp lực và đe dọa từ môi trường công nghệ là sự ra đời của công nghệ mới làm xuất hiện và tăng cường ưu thế cạnh tranh của các sản phẩm thay thế, đe dọa các sản phẩm truyền thống.
Sự bùng nổ của công nghệ mới làm cho công nghệ hiện tại bị lỗi thời và tạo ra áp lực đòi hỏi các DN phải đổi mới công nghệ để tăng cường khả năng cạnh tranh.
Môi trường ngành: Khi đánh giá môi trường ngành của DN, cần phân tích những nội dung: Chu kỳ kinh doanh, triển vọng tăng trưởng của ngành, cạnh tranh trong ngành, áp lực cạnh tranh tiềm tàng.
Triển vọng tăng trưởng của một ngành có liên hệ chặt chẽ với chu kỳ kinh tế. Một ngành có triển vọng tăng trưởng mạnh có thể đem lại cho các DN trong ngành những cơ hội thuận lợi.
Những cơ hội này thể hiện ở tiềm năng mở rộng thị trường, khả năng cải thiện vị thế tài chính của các DN… Vì vậy, khi đánh giá môi trường ngành của DN, cần xem xét triển vọng của Ngành trên cơ sở đánh giá chu kỳ của nền kinh tế và nhu cầu tiềm tàng của nền kinh tế đối với ngành mà DN đang hoạt động.
Việc cạnh tranh phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố và những yếu tố này cũng thay đổi tùy theo từng ngành. Đồng thời, sự cạnh tranh giữa các DN chủ yếu diễn ra trên hai phương diện là giá cả và chất lượng sản phẩm.
Môi trường bên trong doanh nghiệp
Khi xác định giá trị DN, bao giờ người ta cũng tâm đến hiện trạng tài sản của DN, bởi: (i) Tài sản của một DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá trình SXKD; (ii) Giá trị các tài sản được coi là một căn cứ và là một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị DN. Bên cạnh đó, vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh được đặc trưng bởi các yếu tố như địa điểm, diện tích của DN …
Cùng với đó, thực hiện đánh giá mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của DN tại thị trường trong nước, nước ngoài; từ đó đánh giá được thị phần, thị trường của DN trên thương trường trong nước và quốc tế. Đây là cơ sở để đánh giá sức mạnh thương hiệu của DN tác động đến thị trường như thế nào.
Muốn thành công trong kinh doanh, các DN cần có chiến lược kinh doanh cụ thể trong từng giai đoạn nhất định nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất. Vì vậy, các thẩm định viên cần đánh giá chiến lược kinh doanh ước tính doanh thu của DN, đây là cơ sở để hình thành giá trị của DN; đó là: Chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược phân phối và chiến lược hỗ trợ bán hàng.
Thành công của một DN phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ của DN với khách hàng. Khi cạnh tranh trên thị trường diễn ra ngày càng găy gắt, thì việc thu hút và giữ chân khách hàng là rất khó khăn; do đó xây dựng mạng lưới khách hàng là việc làm rất quan trọng để có được những khách hàng trung thành của DN.
Một DN hoạt động hiệu quả tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào việc quản trị DN. Thẩm định viên cần đánh giá việc quản trị DN trên các mặt sau: Loại hình DN; cơ cấu tổ chức; công nghệ, thiết bị hiện tại của DN và nguồn nhân lực của DN. Đây là cơ sở để hình thành giá trị của DN.
Thẩm định viên cần đánh giá chiến lược lựa chọn loại hình DN có phù hợp với yêu cầu phát triển của DN hay không và việc chuyển đổi loại hình sở hữu của DN có phù hợp với các quy luật phát triển của DN hay không. Điều này cũng tác động đến cơ cấu giá trị vốn chủ sở hữu và giá trị DN.
Đánh giá cơ cấu tổ chức và công nghệ thiết bị của DN cũng là yêu cầu quan trọng. Tổ chức là quá trình sắp xếp và bố trí các công việc, giao quyền hạn và phân phối các nguồn lực của tổ chức sao cho chúng đóng góp một cách tích cực và có hiệu quả vào mục tiêu chung của DN. Đánh giá công nghệ thiết bị của DN trên các mặt sau: Công nghệ hiện tại của DN là lạc hậu hay hiện đại; công suất máy móc thiết bị của DN; sự tác động của công nghệ đến môi trường; chiến lược đổi mới công nghệ của DN.
Nguồn nhân lực được xem là một yếu tố tạo nên sự thành công của DN. Để đánh giá nguồn nhân lực của DN là tốt hay không thì thẩm định viên cần đánh giá trên các mặt: Văn hoá của DN thể hiện qua triết lý kinh doanh; chính sách phát triển nguồn nhân lực của DN; tiềm năng nhân sự của DN; năng lực của ban lãnh đạo DN. Đây là những lợi thế để hình thành nên giá trị vô hình của DN.
Các vấn đề cần lưu tâm về nhân tố ảnh hưởng tới giá trị doanh nghiệp
DNNVV Việt Nam có những đặc trưng riêng, do vậy khi định giá ngoài việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng như đối với các DN thông thường thì thẩm định viên cần lưu tâm thêm các nhân tố ảnh hưởng sau:
- Về loại hình DN: Các DNNVV Việt Nam thuộc nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức tổ chức DN, bao gồm DNNN, DN và các công ty tư nhân, các hợp tác xã. Mặc dù Chính phủ đã có các quy định không phân biệt đối xử giữa các DN thuộc các thành phần khác nhau nhưng trên thực tế, điều này vẫn tồn tại, ảnh hưởng đến tâm lý, phong cách kinh doanh của các DN, đồng thời tạo ra những điểm xuất phát về tiếp cận nguồn lực không như nhau (trong giao đất, trong vay vốn ngân hàng).
- Về quy mô vốn: Là những DN có quy mô vốn và lao động nhỏ, đây thường là những DN khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Đặc điểm này đã làm cho các DN gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của mình. Nguyên nhân là do các DN này chưa có kinh nghiệm huy động vốn kinh doanh. Các tổ chức cung ứng vốn xem khu vực này có nhiều rủi ro nên chưa sẵn sàng cấp tín dụng.
- Về trình độ quản lý: Khả năng quản lý hạn chế, do các chủ DN thường là những người tự đứng ra thành lập và vận hành DN. Họ là những người vừa quản lý vừa tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh, nên mức độ chuyên môn trong quản lý không cao. Phần lớn chủ DN thường ít được đào tạo về quản lý chính quy, thậm chí, các DN ở vùng nông thôn hay vùng sâu vùng xa còn không qua khóa đào tạo nào.
- Về tay nghề người lao động: Trình độ tay nghề của người lao động thấp. Các chủ DNNVV không đủ khả năng cạnh tranh với các DN lớn trong việc thuê lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính. Bên cạnh đó, định kiến của người lao động cũng như những người thân của họ về khu vực này còn khá lớn. Người lao động ít được đào tạo vì kinh phí hạn hẹp nên trình độ và kỹ năng thấp.
- Về khoa học công nghệ: Khả năng về công nghệ thấp do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai, nhiều DNNVV có những sáng kiến công nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể hình thành công nghệ mới hoặc bị các DN lớn mua lại với giá rẻ.
Tuy nhiên, các DNNVV rất linh hoạt trong việc thay đổi công nghệ sản xuất do giá trị của dây chuyền công nghệ thường thấp và họ thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ phù hợp với quy mô của mình từ những công nghệ cũ và lạc hậu. Điều này thể hiện tính linh hoạt trong đổi mới công nghệ và tạo nên sự khác biệt về sản phẩm để các DN này có thể tồn tại trên thị trường.
- Về thị trường: Khả năng tiếp cận thị trường kém, đặc biệt đối với thị trường nước ngoài. Nguyên nhân chủ yếu là do các DNNVV thường là những DN mới hình thành, khả năng tài chính cho các hoạt động tiếp thị không có và cũng chưa có nhiều khách hàng truyền thống. Thêm vào đó, quy mô thị trường của các DN này thường bó hẹp trong phạm vi địa phương, việc mở rộng ra các thị trường mới là rất khó khăn.
DNNVV ở Việt Nam là một loại hình DN có những đặc trưng riêng biệt, do vậy khi xác định giá trị của các DNNVV thẩm định viên cần lưu tâm thêm một số nhân tố ảnh hưởng mang tính đặc thù trên, từ đó lựa chọn được phương pháp phù hợp, để đưa ra kết quả định giá về giá trị DN với độ tin cậy cao nhất.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011- 2015, Hà Nội;
2. CIEM (2006), DNNVV của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
3. CIEM (2010), Đặc điểm môi trường kinh doanh ở Việt Nam: Kết quả điều tra DNNVV năm 2009, Hà Nội;
4. Nguyễn Minh Hoàng và Phạm Văn Bình (2011), Giáo trình “Định giá tài sản”;
5. Đoàn Văn Trường (2004), Các phương pháp xác định giá trị tài sản;
6. Nguyễn Đoàn (2005), Xác định giá trị DN trong cổ phần hóa ở Việt Nam.