Những điểm mới trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015

PV.

Ngày 25/6/2015 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, có hiệu lực từ ngày 01/9/2015. Việc nghiên cứu nội dung của Luật, đặc biệt là các điểm mới của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân ban hành năm 2015 là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.

- Chương I từ Điều 1 đến Điều 6 quy định về nguyên tắc bầu cử; tuổi bầu cử và tuổi ứng cử; tiêu chuẩn của người ứng cử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong công tác bầu cử; ngày bầu cử; kinh phí tổ chức bầu cử.

Điểm mới trong Luật này là trao thẩm quyền quyết định ngày bầu cử; quyết định việc bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội trong thời gian giữa nhiệm kỳ; quyết định thành lập Hội đồng bầu cử quốc gia cho Quốc hội thay vì do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thực hiện như trước đây. Ngày bầu cử công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử (Luật cũ là 105 ngày).

- Chương II từ Điều 7 đến Điều 11 quy định về dự kiến cơ cấu, thành phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; đơn vị bầu cử và khu vực bỏ phiếu.

Điểm mới trong Luật lần này là số lượng người dân tộc thiểu số được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Hội đồng dân tộc của Quốc hội, bảo đảm có ít nhất 18% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là người dân tộc thiểu số. Số lượng phụ nữ được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự kiến trên cơ sở đề nghị của Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội là phụ nữ.

Cùng với đó, Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã dự kiến cơ cấu, thành phần, phân bổ số lượng người được giới thiệu để ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trong đó bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân là phụ nữ; số người ứng cử là người dân tộc thiểu số được xác định phù hợp với tình hình cụ thể của từng địa phương.

- Chương III từ Điều 12 đến Điều 28 quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia và các tổ chức phụ trách bầu cử ở địa phương.

Hội đồng bầu cử quốc gia là một thiết chế hiến định mới trong Hiến pháp năm 2013. Hội đồng bầu cử quốc gia do Quốc hội thành lập (Luật cũ gọi là Hội đồng bầu cử ở Trung ương do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thành lập) có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Luật quy định cụ thể ba nhóm nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia: nhiệm vụ, quyền hạn chung của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với công tác bầu cử; nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu Quốc hội, trong đó có nhiệm vụ trình Quốc hội kết quả xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội được bầu và nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng bầu cử quốc gia đối với bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.

- Chương IV từ Điều 29 đến Điều 34 quy định về danh sách cử tri; nguyên tắc lập danh sách cử tri; những trường hợp không được ghi tên, xoá tên hoặc bổ sung tên vào danh sách cử tri; thẩm quyền lập danh sách cử tri; niêm yết danh sách cử tri; khiếu nại về danh sách cử tri và việc bỏ phiếu ở nơi khác.

Điểm mới là mở rộng cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được ghi tên vào danh sách cử tri để bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nơi người đó đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Chương V từ Điều 35 đến Điều 61 chia làm 4 mục: ứng cử; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Quốc hội và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội; hiệp thương, giới thiệu người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và điều chỉnh cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và mục về danh sách những người ứng cử.

- Chương VI từ Điều 62 đến Điều 68 quy định về tuyên truyền, vận động bầu cử: trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền, vận động bầu cử; nguyên tắc vận động bầu cử; thời gian tiến hành vận động bầu cử; hình thức vận động bầu cử; hội nghị tiếp xúc cử tri; vận động bầu cử thông qua phương tiện thông tin đại chúng và những hành vi bị cấm trong vận động bầu cử.

- Chương VII từ Điều 69 đến Điều 72 quy định về nguyên tắc và trình tự bỏ phiếu. Luật giữ nguyên quy định về thời gian bỏ phiếu bắt đầu từ 7 giờ sáng đến 7 giờ tối cùng ngày. Tuy nhiên, tùy tình hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng không được trước 5 giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 21 giờ cùng ngày (Luật cũ là không quá 22 giờ).

- Chương VIII từ Điều 73 đến Điều 88 quy định về kết quả bầu cử, gồm 4 mục: việc kiểm phiếu; kết quả bầu cử ở đơn vị bầu cử; bầu cử thêm, bầu cử lại; và tổng kết cuộc bầu cử.

- Chương IX từ Điều 89 đến Điều 94 quy định về bầu cử bổ sung đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân gồm: bầu cử bổ sung; tổ chức phụ trách bầu cử bổ sung; danh sách cử tri trong bầu cử bổ sung; ứng cử và hiệp thương, giới thiệu người ứng cử trong bầu cử bổ sung; trình tự bầu cử, xác định kết quả trong bầu cử bổ sung và khiếu nại, tố cáo, kiến nghị về bầu cử bổ sung.

- Chương X từ Điều 95 đến Điều 98 quy định về xử lý vi phạm pháp luật về bầu cử, quy định chuyển tiếp và hiệu lực thi hành.