Những đột phá mang tính chiến lược trong tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam


Tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ quan trọng đã được Đảng, Nhà nước đặt ra và thực hiện từ nhiều năm qua. Nhiệm vụ này tiếp tục được triển khai quyết liệt trong giai đoạn tới. Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn 2021-2025 là việc tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải nhanh hơn và có sự bứt phá.

Ảnh minh họa: Nguồn internet
Ảnh minh họa: Nguồn internet

Theo đó, cần xác định rõ những thành tựu, tồn tại và hạn chế, cũng nhận diện những tác động để có thể đưa ra những giải pháp hiệu quả. Bài viết phân tích những thành tựu cũng như hạn chế của chiến lược tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua, đồng thời chỉ ra những đột phá mang tính chiến lược trong thời gian tới để thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước.

Vài nét về chiến lược tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua

Quan điểm, chủ trương của Đảng

Tái cơ cấu kinh tế (CCKT), đổi mới mô hình tăng trưởng (MHTT) kinh tế được tiến hành ở Việt Nam kể từ Đại hội VI của Đảng. Từ đó đến nay, quan điểm, chủ trương của Đảng liên tục được khẳng định, chỉ đạo thực hiện xuyên suốt qua các kỳ đại hội. Đặc biệt, đến Đại hội XI, Đảng đề ra chủ trương mới, chuyển đổi MHTT, tái CCKT gắn với thực hiện 3 bước đột phá chiến lược được xác định là chủ trương lớn, thu hút toàn bộ hệ thống chính trị cùng vào cuộc.

Theo đó, mục tiêu của việc tái CCKT là thay đổi thể chế, cơ chế, công cụ phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực quốc gia theo MHTT mới với tái CCKT hợp lý hơn, hiệu quả hơn, nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, bảo đảm phát triển bền vững và phù hợp với xu hướng toàn cầu hóa. Tái CCKT và đổi mới MHTT phải gắn kết hữu cơ với nhau, tác động lẫn nhau, trong đó MHTT có vai trò dẫn dắt, chi phối quá trình tái CCKT. Tái CCKT là điều kiện tiên quyết để đổi mới MHTT.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định: “MHTT trong thời gian tới là sự kết hợp có hiệu quả của phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh, bền vững”.

Như vậy, quan điểm của Đảng thể hiện rõ, việc  tái  CCKT, đổi  mới MHTT phải gắn với thực hiện ba đột phá chiến lược, bao gồm: (1) Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Phát triển nguồn nhân lực; (3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng.

Những đột phá mang tính chiến lược trong tái cơ cấu, đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam - Ảnh 1

 Từ chủ trương đó, hàng loạt chính sách mới đã được Đảng và Nhà nước ban hành để thực hiện mục tiêu đề ra. Trong quá trình thực hiện, đã đạt được một số thành tựu, tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục.

Thành tựu đạt được

Tổng kết 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020 cho thấy, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu sau:

Một là, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới MHTT, tái CCKT tế đã được các cấp, các ngành triển khai thực hiện và đạt được kết quả bước đầu. Trước hết là ổn định kinh tế vĩ mô và tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế. Lạm phát cơ bản được duy trì ở mức ổn định khoảng 1,7% trong cả giai đoạn. Thực hiện được mục tiêu cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng giảm dần tỷ lệ bội chi ngân sách xuống dưới 3,5% GDP. Dự trữ ngoại tệ gia tăng nhanh chóng, tỷ giá ổn định linh hoạt, làm cho thị trường ngoại hối ổn định hơn, góp phần tăng thêm sức chống chịu của nền kinh tế.

Hai là, cách thức và chất lượng tăng trưởng đã có sự thay đổi, cải thiện nhất định. Thể hiện ở việc không còn sử dụng khai khoáng như một công cụ điều hành nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, tăng trưởng giai đoạn này chủ yếu dựa vào cải cách và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh thay vì nhờ vào mở rộng tín dụng và các gói kích thích kinh tế.

Ba là, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này duy trì ở mức hợp lý. MHTT từng bước chuyển đổi theo hướng kết hợp giữa chiều rộng và chiều sâu; năng suất lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp và năng lực cạnh tranh quốc gia được cải thiện.

Bốn là, cơ cấu nền kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hóa; vốn đầu tư nhà nước tiếp tục được bảo toàn và phát triển. Hiệu quả đầu tư công từng bước được cải thiện, bước đầu hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải…

Một số tồn tại và hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình tái CCKT và đổi mới MHTT ở nước ta thời gian qua còn gặp phải một số tồn tại, hạn chế như:

Thứ nhất, MHTT về cơ bản vẫn theo mô hình cũ, chậm được đổi mới; tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư và số lượng lao động, chưa dựa nhiều vào tăng năng suất lao động, ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, chuyển dịch CCKT.

Thứ hai, xét trong dài hạn và chất lượng của sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng vẫn còn không ít điều cần cải thiện. Đó là nguồn thu ngân sách chưa bền vững; Độ mở của nền kinh tế đã gia tăng rất nhanh và ở mức rất cao; Nền kinh tế ngày càng phụ thuộc nhiều hơn vào đầu tư nước ngoài. Đây là những dấu hiệu chỉ ra khá rõ nền kinh tế nước ta đang ngày càng trở nên dễ bị tác động trước các biến động bất lợi từ bên ngoài.

Thứ ba, việc thực hiện những đột phá chiến lược chưa đạt mục tiêu đề ra. Cùng với đó, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được cải thiện; môi trường đầu tư, kinh doanh còn nhiều trở ngại. Việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ theo hướng hiện đại còn nhiều khó khăn. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn công việc.

Thứ tư, việc tái CCKT triển khai chậm, thiếu đồng bộ, chưa thật sự gắn với đổi mới MHTT; chưa gắn kết chặt chẽ giữa tổng thể với các trọng tâm. Đổi mới, sắp xếp lại và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa đạt yêu cầu, tỷ lệ vốn được cổ phần hóa thấp; quản trị doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém. Cơ cấu lại nông nghiệp chưa thực sự gắn với xây dựng nông thôn mới; sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu theo mô hình kinh tế hộ nhỏ lẻ, manh mún, phân tán; liên kết giữa sản xuất, chế biến, tiêu thụ còn nhiều bất cập, hạn chế.

Thứ năm, cơ chế, chính sách điều phối phát triển vùng chưa đủ mạnh. Sự phát triển giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng còn thiếu tính liên kết, bị giới hạn bởi địa giới hành chính; chưa phát huy được các lợi thế cạnh tranh của từng địa phương và của toàn vùng; một số vùng kinh tế trọng điểm chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, chưa phát huy được vai trò đầu tàu, trở thành trung tâm kết nối cho phát triển kinh tế vùng…

Chiến lược tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong giai đoạn tới

Mục tiêu tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng trong giai đoạn tới

Nhận thức được những tồn tại và hạn chế nêu trên, trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ MHTT, cơ cấu lại nền kinh tế”. Theo đó mục tiêu cụ thể của chiến lược đổi mới MHTT, tái CCKT trong giai đoạn tiếp theo gồm:

(i) Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Trong đó, cơ cấu lại thị trường bất động sản, đất đai, tài nguyên để đất đai, tài nguyên được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao. Cơ cấu lại các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ theo hướng tập trung phát triển các lĩnh vực, các sản phẩm có tiềm năng, lợi thế công nghệ cao, giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế.

(ii) Cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nói chung để phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăng cường gắn kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Qua đó, nhằm khắc phục tình trạng thiếu gắn kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo ra được sự chuyển giao công nghệ, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trong nước.

(iii) Phát triển khu vực kinh tế tư nhân để khu vực kinh tế này thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%... 

Xuyên suốt trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, nội dung MHTT, tái CCKT, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đều nhấn mạnh yếu tố khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là việc tận dụng những thành tựu Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, việc tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng này là hết sức quan trọng để áp dụng những công nghệ mới nhất vào tất cả các ngành, các lĩnh vực, tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững cho đất nước.

Nhiệm vụ cần thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra

Trên cơ sở các mục tiêu đề ra, Chính phủ xác định các nhiệm vụ của giai đoạn 2021-2025 như sau:

Một là, bảo đảm tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô bền vững, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn mức bình quân của 5 năm 2016-2020, đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.

Hai là, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục có hiệu quả tác động của đại dịch COVID-19, nhanh chóng phục hồi và phát triển kinh tế. Nghiên cứu, xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế khả thi, hiệu quả. Đẩy mạnh tái CCKT gắn với đổi mới MHTT, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; phát triển kinh tế số, xã hội số. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, nâng cao khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Nhanh chóng phục hồi nền kinh tế trong những năm đầu, bứt phá, phát triển trong những năm tiếp theo…

Ba là, đẩy mạnh cơ cấu lại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp nhà nước, đầu tư công. Đến năm 2025, hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước; xử lý cơ bản những yếu kém, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tăng cường huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc các dự án đầu tư của mọi thành phần kinh tế còn tồn đọng, kéo dài, tạo nguồn lực phát triển.

Bốn là, đầu tư công trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiện đại, tập trung 03 đột phá chiến lược, lĩnh vực ưu tiên, vùng động lực, vùng khó khăn, khu vực chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, các công trình, dự án trọng điểm có sức lan tỏa cao; bảo đảm cơ cấu đầu tư hài hòa, hợp lý, hiệu quả giữa các vùng, miền, lĩnh vực, thu hẹp chênh lệch vùng miền và khoảng cách giàu - nghèo…

Năm là, đẩy mạnh xây dựng, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược đồng bộ, hiện đại, nhất là hệ thống hạ tầng giao thông (đường bộ cao tốc, đường hàng không, đường sắt, đường thủy) ở các vùng kinh tế trọng điểm và những vùng còn khó khăn; hạ tầng năng lượng; hạ tầng đô thị, hạ tầng tăng cường năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung - Tây Nguyên. Phát triển hài hòa hệ thống hạ tầng kinh tế, xã hội; thúc đẩy phát triển hạ tầng số, hạ tầng kết nối các phương thức vận tải, logistics; phát triển đô thị và kinh tế đô thị.

Một số đột phá mang tính chiến lược trong giai đoạn tới

Năm 2021, đất nước đang bước vào giai đoạn chuyển đổi MHTT với nhiệm vụ nặng nề hơn trước. Bởi trước đây, Việt Nam thực hiện tái CCKT, chuyển đổi MHTT theo hướng nâng cao năng suất, hiệu quả, năng lực cạnh tranh, nhưng trong giai đoạn hiện nay, do tác động của đại dịch COVID-19, yêu cầu trước mắt là phải phục hồi tăng trưởng nền kinh tế. So với 10 năm trước, phục hồi kinh tế trong giai đoạn này sẽ có nhiều khó khăn hơn. Bởi trong giai đoạn 2011-2015, kinh tế toàn cầu suy thoái nhưng nhìn chung vẫn thuận lợi hơn so với tình trạng hiện nay và Việt Nam cũng có nhiều tiềm năng và lợi thế hơn, nhất là trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Vì vậy, nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi MHTT vẫn tiếp tục phải thực hiện nhưng khác hơn rất nhiều so với giai đoạn trước.

Trong quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới MHTT giai đoạn 2021-2025, cải cách và hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế, gắn với cải cách thực chất, thủ tục hành chính cần được xem là đột phá đầu tiên và quan trọng nhất. Do đó, cần cởi trói mọi bó buộc của các quy định không phù hợp với bối cảnh mới của Việt Nam và thế giới; tạo môi trường đầu tư, kinh doanh hấp dẫn, lành mạnh, công bằng. Đồng thời, xây dựng bộ máy quản lý gọn nhẹ, với đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất đạo đức, liêm chính, tinh thần kiến tạo, có năng lực chuyên môn, sáng tạo. Bên cạnh đó, cần phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có tri thức hiện đại, có kỹ năng đáp ứng xu thế phát triển mới của kinh tế thế giới và của Việt Nam, giàu động lực sáng tạo, mạnh dạn chấp nhận rủi ro.

Đột phá tiếp theo đó là chuyển mạnh nền kinh tế sang MHTT dựa trên cơ sở tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn lực để nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp trên nền tảng ứng dụng mạnh mẽ các thành tựu của khoa học - công nghệ, nhất là Cách mạng công nghiệp 4.0...

Cơ cấu lại và đổi mới MHTT phải nhanh và có sự bứt phá hơn. Vì vậy, cần xác định rõ những tác động, để kịp thời có các giải pháp, CCKT hiệu quả. Đổi mới MHTT phải gắn với quá trình đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thể chế, nhất là phát triển thị trường các nhân tố sản xuất; thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân và những thiết chế bảo vệ tài sản, bảo vệ quyền kinh doanh của người dân và doanh nghiệp. Chú trọng tăng cường nội lực, phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường khả năng chống chịu với các cú sốc bên ngoài.

Tóm lại, để tạo nền tảng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tầm nhìn và chất lượng, có khả năng ứng dụng công nghệ cao, vận hành và quản lý dựa trên nền tảng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo, nhất thiết phải tập trung nguồn lực để tạo các bước đột phá về cơ chế, chính sách cho phát triển cơ sở hạ tầng, gắn liền với mục tiêu chuyển đổi MHTT nhanh với xu hướng kinh tế số phù hợp với thời kỳ hội nhập. Có như vậy mới thực hiện được các mục tiêu mà Đảng và Nhà  nước đã đề ra.     

Tài liệu tham khảo:

1.Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội XII, NXB Chính trị quốc gia;

2.Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, NXB Chính trị quốc gia;

3.Ban Chấp hành Trung ương (2020), Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030;

4.Chính phủ (2021), Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025;

5.Nguyễn Đình Thao (2021), Những điểm mới về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Tap chí Tuyên giáo;

6.Trần Huyền (2021), Để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đi vào thực chất, Tạp chí Tài chính.

(*) PGS.,TS. Nguyễn Đình Luận - Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh (HUTECH).

(*) Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 9/2021.