OECD dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng 6,5% năm 2023

Hoàng Minh

Theo Báo cáo mới nhất của OECD, tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam sẽ ở mức 6,5% vào năm 2023 và duy trì tốc độ 6,6% vào năm 2024.

Ngày 26/4, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tổ chức công bố Báo cáo kinh tế của Việt Nam 2023.

Thông tin từ Báo cáo cho biết, bất chấp những lo ngại ngày càng tăng về sự gián đoạn thương mại và chuỗi cung ứng toàn cầu, nền kinh tế Việt Nam dự kiến sẽ duy trì được đà tăng trưởng từ năm 2022 trở đi. Dự báo tăng trưởng GDP thực tế sẽ ở mức 6.5% vào năm 2023 và duy trì tốc độ 6.6% vào năm 2024.

Các chỉ số và dự báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Nguồn: OECD
Các chỉ số và dự báo kinh tế vĩ mô của Việt Nam. Nguồn: OECD

Theo OECD, nhu cầu nội địa sẽ tiếp tục gia tăng do các hạn chế kiểm dịch COVID-19 đã được dỡ bỏ. Đầu tư của doanh nghiệp sẽ vững chắc khi nguồn vốn đầu tư nước ngoài đang quay trở lại. Đầu tư của Chính phủ, gồm cả gói kích thích kinh tế mới nhất, cũng được cho là sẽ thúc đẩy tăng trưởng.

Tuy nhiên, với độ mở của nền kinh tế, Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi những bất ổn địa chính trị và nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng. Bên cạnh đó, trong ngắn hạn, các điều kiện bên ngoài cũng có thể đe dọa sự phục hồi của nền kinh tế. Sự gián đoạn chuỗi cung ứng có thể tiếp tục đè nặng lên thương mại toàn cầu và lạm phát gia tăng trên khắp thế giới có thể gây thêm áp lực giảm tỷ giá hối đoái cho Việt Nam.

Hiện tại, giá năng lượng và lương thực tăng cao đang đè nặng lên triển vọng kinh tế. Đặc biệt, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo được dự báo sẽ tiếp tục giảm (World Bank, 2022), sức mua của các hộ gia đình vẫn bị ảnh hưởng và tăng trưởng tiêu dùng tư nhân sẽ giảm bớt sau khi phục hồi mạnh mẽ từ mức đáy của quý III/2021.

Xung đột kéo dài ở Ukraine đang tác động tới thương mại toàn cầu và các chuỗi cung ứng đang bị gián đoạn. Song, tác động trực tiếp của cuộc xung đột đối với Việt Nam là hạn chế và nhu cầu bên ngoài dự kiến sẽ ổn định.

Chính sách COVID-19 thay đổi của Trung Quốc đang gây thêm bất ổn cho thương mại khu vực, nhưng điều này cũng sẽ giúp tăng sức hấp dẫn tương đối của Việt Nam như một điểm đến đầu tư.

Trong bối cảnh đó, việc thực hiện những cải cách cơ cấu, đặc biệt là cải cách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, là rất quan trọng để đạt được sự phục hồi mạnh mẽ và thúc đẩy tăng trưởng trong trung hạn.

Để ứng phó với những thách thức, OECD cho rằng, Việt Nam cần nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy cải cách cơ cấu nhằm tăng cường các lực lượng thị trường.

Ngoài ra, theo OECD, để giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, Việt Nam nên dừng đầu tư mới vào than đá và đẩy nhanh việc thực hiện thị trường carbon. Vì những cải cách này sẽ yêu cầu các nguồn lực tài chính bổ sung, cơ sở thuế nên được mở rộng để tăng thu nhập của Chính phủ.

Đối với các chính sách, OECD đánh giá Việt Nam có một khung chính sách tiền tệ riêng biệt cùng hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý, chính sách tài khóa được cải thiện góp phần giúp Chính phủ có dư địa tài khóa rộng rãi để phòng vệ trong điều kiện kinh tế xấu đi.

Báo cáo cũng đưa ra 3 thông điệp chính về nền kinh tế Việt Nam. Đầu tiên, chính sách kinh tế vĩ mô cần giúp tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế. Trong ngắn hạn, ưu tiên là giảm thiểu tác động của giá năng lượng cao thông qua hỗ trợ có đối tượng mục tiêu cho các hộ gia đình dễ bị tổn thương, thay vì thực hiện những biện pháp tài khóa mở rộng hơn nữa.

Trong trung hạn, Báo cáo nhấn mạnh yêu cầu phải củng cố các khung chính sách kinh tế vĩ mô bằng cách cải thiện tính bền vững tài khóa thông qua mở rộng cơ sở thuế. Đồng thời, cần tăng cường hệ thống bảo trợ xã hội và giảm quy mô của khu vực kinh tế phi chính thức.

Bên cạnh đó, Việt Nam cần cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh và tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số để duy trì tăng trưởng kinh tế cao sau khi phục hồi.

Trong thông điệp cuối cùng, Báo cáo chỉ ra, để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050, Việt Nam sẽ cần phải duy trì mức đầu tư cao cho năng lượng tái tạo và theo đuổi hiệu quả sử dụng năng lượng cao hơn.

Định hướng này có thể được hiện thực hóa thông qua cách tiếp cận chính sách toàn diện, trong đó ưu tiên đầu tư nhà nước và tư nhân hiệu quả, thiết lập các quy định tạo thuận lợi, tạo cơ chế để giá cả thị trường phản ánh tốt hơn hàm lượng carbon.