Phát triển thị trường Tài chính Việt Nam an toàn, hiện đại và bền vững

Bảo Thương

Thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, trước những tác động từ nhiều yếu tố khác nhau, TTTC Việt Nam dự báo sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Do đó, việc xây dựng định hướng nhằm phát triển TTTC Việt Nam theo hướng đảm bảo an toàn, hiện đại, bền vững là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay.

Phát triển thị trường vốn theo chiều sâu nhằm gia tăng vốn trung và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế.
Phát triển thị trường vốn theo chiều sâu nhằm gia tăng vốn trung và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế.

Nhiều thách thức từ bối cảnh kinh tế toàn cầu

Theo Báo cáo “Liệu cuộc suy thoái toàn cầu sắp xảy ra” phát hành vào tháng 9/2022 của Ngân hàng Thế giới (WB), do tác động của dịch bệnh COVID-19 và sự xung đột giữa Nga và Ukraine, tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo giảm mạnh, dự kiến chỉ đạt 2,8% năm 2022, giảm 1,3 điểm % so với dự báo trước đó. Không những điều chỉnh triển vọng tăng trưởng, báo cáo của WB còn cho thấy, nhiều nước có nguy cơ lâm vào tình trạng suy thoái trong năm 2023. 

Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh và xung đột quân sự giữa hai nước còn tạo ra những "nút thắt” đối với các nền kinh tế trên thế giới, khiến chuỗi cung ứng bị gián đoạn, gái cả hàng hóa tăng cao và nguy cơ lạm phát kéo dài.

Theo WB, chỉ số giá hàng hóa thực phẩm (FCPI) trong tháng 3 và tháng 4/2022 đã đạt mức cao nhất trong lịch sử, tăng 15% so với hai tháng trước đó và cao hơn 80% so với hai năm trước. Vì thế, ưu tiên kiểm soát lạm phát thông qua việc thắt chặt tiền tệ là giải pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã tăng lãi suất 6 lần trong năm 2022, đưa lãi suất điều hành lên mức 3,75 - 4%.

Song song với nguy cơ lạm phát kéo dài, dịch bệnh còn làm cho các quốc gia phải thực hiện nhiều gói chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp phục hồi kinh tế. Điều này tất yếu dẫn đến tăng nợ quốc gia, khiến các nước lâm vào khó khăn khi áp lực trả nợ gia tăng...

Ngoài ra, sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng làm xuất hiện các loại hình tội phạm mới, tội phạm công nghệ cao, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Đây là những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và TTTC nói riêng của nhiều quốc gia hiện nay.

Tác động đến từ nội tại TTTC

Không chỉ có những thách thức từ bối cảnh kinh tế - tài chính thế giới, TTTC còn phải đối mặt với những tác động đến từ yếu tố nội tại của TTTC.

Mặc dù đã đạt được kết quả tăng trưởng kinh tế tích cực trong bối cảnh suy thoái toàn cầu (tăng trưởng 2,58% năm 2021 và dự báo tiếp tục tăng trưởng ở mức 6,5-7% trong giai đoạn 2021-2025), song nền kinh tế Việt Nam vẫn đang đối diện với những thách thức nội tại ảnh hưởng tới chất lượng, tốc độ tăng trưởng và qua đó tác động tới TTTC.

Áp lực lạm phát trong nước tăng lên đã ảnh hưởng tới dòng tiền vào TTTC, tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết, việc huy động vốn của hệ thống ngân hàng… Tính chung 10 tháng năm 2022, CPI tăng 2,89% so với cùng kỳ năm 2021 chủ yếu do biến động giá xăng, dầu, giáo dục và nhu cầu tiêu dùng gia tăng sau đại dịch.

Áp lực lạm phát tăng lên
Áp lực lạm phát tăng lên

Áp lực lạm phát tăng đồng nghĩa với việc áp lực lên lãi suất cũng ngày càng lớn. Lãi suất trái phiếu chính phủ (TPCP) tăng mạnh với khối lượng huy động thấp do các nhà đầu tư kỳ vọng mức lãi suất cao hơn trong bối cảnh lạm phát trong nước gia tăng và lợi suất TPCP Hoa Kỳ vượt mức 3% (cao nhất trong gần 4 năm trở lại đây).

Đồng USD mạnh lên cùng với xu hướng lạm phát cũng gây áp lực đến tỷ giá trong nước. Tỷ giá của Việt Nam đã tăng khoảng 4,8% trong 9 tháng đầu năm 2022 (trong đó hết quý I chỉ tăng 0,23% quý II đã tăng gần 2%).

Bên cạnh đó, mức độ phát triển TTTC Việt Nam còn nhiều hạn chế so với các nước như Thái Lan, Malaysia. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, mức độ phát triển TTTC của Việt Nam ở mức 0,39, tương đương với nhóm nước đang phát triển (0,35) và còn khoảng cách khá lớn so với các nước phát triển (0,65). Trong khu vực châu Á, mức độ phát triển tài chính của Việt Nam còn thấp so với một số nền kinh tế như Ấn Độ (0,52), Trung Quốc (0,67), Malaysia (0,73), Thái Lan (0,74).

Theo TS. Vũ Nhữ Thăng – Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, bên cạnh những thách thức nội tại như trên thì những hạn chế bộc lộ từ thị trường vốn cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến TTTC Việt Nam.

Việc huy động vốn trên thị trường cổ phiếu còn hạn chế, mất cân đối. Đáng chú ý, vốn huy động phần lớn tập trung vào ngành bất động sản, ngân hàng và công ty chứng khoán, chiếm 66% tổng giá trị cổ phiếu phát hành (năm 2020: 62,6%, 6 tháng đầu năm 2022 tương ứng là 68,6%).

Đảm bảo an toàn, bền vững trong phát triển TTTC

Đối mặt với rất nhiều những khó khăn, thách thức của bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước, song TTTC Việt Nam vẫn được kỳ vọng sẽ phát triển mạnh trong thời gian tới.

Đặt mục tiêu phát triển TTTC an toàn, minh bạch, hiệu quả, bền vững theo hướng hoàn thiện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, ổn định kinh tế vĩ mô, huy động nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, tới đây, theo TS. Vũ Nhữ Thăng, các cơ quan quản lý cần chú trọng đến một số định hướng trọng tâm.

Theo đó, cần phát triển thị trường vốn theo chiều sâu nhằm gia tăng vốn trung và dài hạn, phục vụ phát triển kinh tế. Thị trường vốn cần được phát triển ổn định, bền vững với cơ cấu hợp lý giữa thị trường cổ phiếu và trái phiếu, TPCP và TPDN; hỗ trợ tích cực quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế. Chú trọng phát triển thị trường TPDN để trở thành kênh huy động vốn trung, dài hạn hiệu quả cho nền kinh tế.

Tiếp tục tái cơ cấu toàn diện các tổ chức tài chính, đặc biệt là hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Theo đó, hệ thống các TCTD cần được cơ cấu lại gắn với trọng tâm là xử lý căn bản, triệt để nợ xấu và các TCTD yếu kém bằng các hình thức phù hợp với cơ chế thị trường trên nguyên tắc thận trọng, bảo đảm quyền lợi của người gửi tiền và giữ vững sự ổn định, an toàn hệ thống. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán cần được cơ cấu lại thông qua việc tiến hành rà soát, đánh giá phân loại các tổ chức này theo chất lượng tài chính và khả năng cung cấp dịch và trên cơ sở mức độ rủi ro đối với thị trường.

Bên cạnh đó, hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán cũng cần được đổi mới; năng lực tài chính, quản trị rủi ro cần được nâng cao theo thông lệ quốc tế, nhằm tăng cao sức cạnh tranh, bảo vệ tối đa tài sản và quyền lợi của các nhà đầu tư. Các định chế tài chính nhà nước cần được tái cơ cấu toàn diện. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động tín dụng của các định chế tài chính nhà nước cần được tăng cường nhằm đảm bảo các tổ chức này hoạt động đúng mục tiêu và hạn chế rủi ro trong thời gian tới.

Đổi mới hoạt động hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Đổi mới hoạt động hoạt động của các tổ chức kinh doanh chứng khoán.

Ngoài ra, cần phát triển các dịch vụ tài chính hiện đại theo xu hướng của quốc tế về tài chính toàn diện, công nghệ tài chính. Trong xu hướng nhu cầu ngày càng tăng về dịch vụ tài chính, ngân hàng, để tiến tới tài chính toàn diện vào năm 2030, cần bảo đảm mọi người dân và doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận đầy đủ, thuận tiện các dịch vụ tài chính, ngân hàng có chất lượng. “Tín dụng xanh”, “ngân hàng xanh” cần được phát triển để góp phần chuyển đổi nền kinh tế sang hướng tăng trưởng xanh, đóng góp tích cực cho phát triển bền vững.

Thời gian tới, công tác thanh tra, giám sát, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính cần được tăng cường triển khai. Năng lực giám sát cần được củng cố và nâng cao theo hướng xây dựng hệ thống giám sát dựa trên rủi ro, cảnh báo sớm rủi ro, cơ chế xử lý khủng hoảng hệ thống và xử lý các định chế tài chính tiềm ẩn rủi ro cao nhằm bảo vệ sự an toàn của hệ thống tài chính.

Bên cạnh đó, cần phát triển cơ sở hạ tầng tài chính đồng bộ, hiện đại, từng bước theo hướng phát triển chung của thế giới. Hệ thống các quy định pháp lý cần được tiếp tục hoàn thiện, hướng tới các chuẩn mực quốc tế tốt nhất và phù hợp với trình độ phát triển của TTTC Việt Nam như: Áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS, IFRS), nguyên tắc quản trị điều hành...