Quan điểm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng


Xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi nhanh và khó lường hiện nay là một trong những nội dung thể hiện hướng tiếp cận mới của Đại hội XIII của Đảng về phát triển kinh tế.

Sản xuất ô tô tại nhà máy sản xuất ôtô VinFast ở Cát Hải (Hải Phòng). Nguồn: zing.vn
Sản xuất ô tô tại nhà máy sản xuất ôtô VinFast ở Cát Hải (Hải Phòng). Nguồn: zing.vn

Tư duy mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ

Đại hội XIII của Đảng thể hiện tư duy mới cũng như nội hàm mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ.

Thứ nhất, đó là hướng tiếp cận mới của Đại hội XIII về xây dựng nền kinh tế Việt Nam. Trong Văn kiện Đại hội XIII, việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ chính thức được nhấn mạnh như một nhiệm vụ kinh tế để hiện thực hóa khát vọng phát triển của Việt Nam trong bối cảnh mới.

Thực tế, trong quá trình lãnh đạo của Đảng ta, một mặt, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của tiến trình cách mạng. Trong đó, vấn đề khát vọng độc lập dân tộc và phát triển luôn là nguồn mạch trong tư duy cũng như trong chỉ đạo thực tiễn của Đảng.

Trong thời kỳ đổi mới, khía cạnh phát triển càng trở nên nổi bật trong suốt hệ thống đường lối, chủ trương của Đảng ta. Mặc dù vậy, để nhất quán về mặt tư duy và cách tiếp cận, coi việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ như một nội hàm chính thức của quá trình hiện thực hóa khát vọng phát triển, để Việt Nam trở thành quốc gia giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc thì đến Đại hội XIII mới được diễn đạt cụ thể và rõ hơn cả.

Mặt khác, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một nội dung trong ba nội dung cốt lõi của hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam (bao gồm: 1- Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; 2- Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; 3- Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế).

Điều này vừa thể hiện cách tiếp cận mới phù hợp với quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, vừa thể hiện tư duy mới trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đòi hỏi thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế; không tách rời việc hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với tầm nhìn về bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc là cao nhất, song lại không trái với các nguyên tắc phát triển phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đang ký kết.

Đồng thời, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ không phải là nền kinh tế khép kín, mà là nền kinh tế thị trường mở cửa, hội nhập. Đây là sự nhất quán trong cách tiếp cận của Đại hội XIII, là điểm mới so với các văn kiện tại các kỳ đại hội trước của Đảng ta.

Hai là, những điểm mới về nội dung xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được bao quát, thống nhất từ việc độc lập, tự chủ về đường lối tới các biện pháp thực hiện để bảo đảm nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đại hội XIII chỉ rõ: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia”(1).

Trong Văn kiện Đại hội XIII, biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn bó mật thiết với giữ vững các cân đối lớn đi đôi với bảo đảm an ninh kinh tế. Đây là điểm mới trong nội dung về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Trong các kỳ đại hội trước của Đảng, vấn đề bảo đảm an ninh kinh tế, giữ vững các cân đối lớn được lồng ghép vào nội hàm của chủ đề quốc phòng - an ninh và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

Trong Văn kiện Đại hội XIII, các cân đối lớn trở thành một trong những biện pháp để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Điều này là phù hợp với chuẩn mực của một nền kinh tế thị trường hiện đại. Các cân đối lớn phản ánh trình độ, tiềm lực của nền kinh tế. Điều đó có nghĩa rằng, khi các cân đối lớn không được bảo đảm, nguy cơ lệ thuộc hoặc bị tác động bởi nhân tố từ bên ngoài có thể sẽ xảy ra. Cho nên, việc coi các cân đối lớn là một nội hàm của biện pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ thể hiện sự phát triển về nhận thức lý luận của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XIII so với các kỳ đại hội trước.

Cùng với đó, việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ được đặt trong sự gắn bó mật thiết với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là mối quan hệ biện chứng, có ý nghĩa bổ sung tạo tiền đề thúc đẩy lẫn nhau. Nền kinh tế nội lực mạnh sẽ thúc đẩy nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao sẽ tạo tiền đề để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Thực tiễn phát triển của các quốc gia thành công trong khu vực và thế giới chứng tỏ sự đúng đắn của mối quan hệ đó. Đây là điểm mới thể hiện sự chín muồi trong nhận thức lý luận của Đảng ta về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tối đa nội lực với tranh thủ ngoại lực để xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh mới. Đó là nền kinh tế được đặt trong mối quan hệ rộng mở, đa dạng với các chủ thể, các nền kinh tế thế giới, tích cực, chủ động hội nhập, không phải là nền kinh tế khép kín hay tự cô lập.

Về biện pháp bảo đảm hiện thực hóa mối quan hệ gắn bó giữa xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ với nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế”(2).

Như vậy, những biện pháp trên cũng thể hiện cách tiếp cận mới trong việc bảo đảm hiệu quả quá trình thực hiện các cam kết với các tổ chức kinh tế quốc tế, các hiệp định song phương, đa phương mà Việt Nam đã ký kết và là thành viên. Việc xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế được chính thức nêu trong Văn kiện Đại hội XIII thể hiện tư duy đầy đủ, toàn diện hơn trong việc tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng so với các văn kiện trước đây.

Mở rộng hội nhập, tăng cường chiều sâu của hội nhập, đồng thời đòi hỏi có các biện pháp phòng vệ, bảo vệ doanh nghiệp và thị trường là hai mặt của cùng một vấn đề. Với một nền kinh tế ở trình độ phát triển còn thấp như của Việt Nam, việc mở cửa, hội nhập mà không đi đôi với xây dựng các biện pháp phòng vệ chính đáng, thích hợp (điều này là phù hợp với các thể chế kinh tế quốc tế) là chưa đầy đủ, toàn diện.

Thực tiễn cho thấy, không có quốc gia nào thực hiện hội nhập một cách chủ động mà thiếu cân nhắc hợp lý về một hệ thống phòng vệ thỏa đáng để bảo vệ sản xuất trong nước. Vì vậy, việc đẩy mạnh hội nhập quốc tế đi đôi với xây dựng hệ thống phòng vệ để bảo vệ chính đáng cộng đồng doanh nghiệp, thị trường trong nước là cách tiếp cận đúng và mới trong Văn kiện Đại hội XIII phù hợp với xu thế chung của thế giới. Chúng ta không chủ trương thực hiện chủ nghĩa bảo hộ đơn phương, hẹp hòi, song chúng ta cần một hệ thống phòng vệ thích đáng, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thể chế quốc tế cho phép.

Bên cạnh đó, các hình thức hội nhập quốc tế cùng với xây dựng đội ngũ cán bộ làm việc trong môi trường quốc tế và giải quyết các tranh chấp quốc tế cũng được coi là biện pháp để thực hiện xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ hoạt động trong môi trường quốc tế và tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của Việt Nam ngày càng được đặt ra cấp thiết.

Đại hội XIII nhấn mạnh: “Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(3).

Điểm mới ở đây là cách tiếp cận từ thụ động, thăm dò chuyển sang chủ động, tích cực trong hội nhập kinh tế quốc tế, với lộ trình phù hợp, cùng đội ngũ nhân lực có trình độ và đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh các tranh chấp thương mại diễn ra ngày càng phổ biến.

Như vậy, cách tiếp cận mới về xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện rõ nhất ở tinh thần chủ động, phát triển toàn diện, coi trọng bảo vệ lợi ích quốc gia trên hết, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước cũng như các chuẩn mực quốc tế trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, để chủ trương đúng đắn trên được hiện thực hóa một cách hiệu quả trong phát triển nền kinh tế nước ta, nhiều vấn đề thể chế cần được tiếp tục hoàn thiện và tổ chức thực hiện đồng bộ.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế thúc đẩy quá trình xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ

Thứ nhất, nhóm thể chế tháo gỡ những điểm nghẽn để doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng lớn mạnh, trở thành nòng cốt của nền kinh tế đất nước.

Doanh nghiệp Việt Nam không phân biệt thành phần, nguồn gốc sở hữu là lực lượng xung kích tạo ra của cải, vật chất, việc làm, đóng góp nguồn lực cho ngân sách, cũng là lực lượng chủ lực tham gia hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện mới. Việc tháo gỡ những điểm nghẽn về thể chế cần được thực hiện khẩn trương, tích cực nhằm thúc đẩy sự gia tăng số lượng doanh nghiệp, đồng thời từng bước nâng cao trình độ, quy mô các doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ; có ngày càng nhiều hơn những doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp lớn, những doanh nghiệp có khả năng dẫn dắt ngành, lĩnh vực, đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Việc khắc phục hiện trạng doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có quy mô siêu nhỏ (chiếm 67,2% trong tổng số 811.538 doanh nghiệp tính tới thời điểm ngày 3-12-2020)(4) đòi hỏi cần thời gian bởi còn nhiều thách thức. Tuy nhiên, trước mắt, cần có những giải pháp để tháo gỡ những rào cản thể chế do chính yếu tố chủ quan tạo ra giúp thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam phát triển.

Cần tập trung cải thiện môi trường kinh doanh thông qua các thể chế quản trị quốc gia tốt, theo hướng minh bạch, tạo cơ hội cũng như động lực mong muốn lớn lên của doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp tục rà soát để tháo gỡ một cách chủ động hơn nữa những quy định còn chồng chéo, bất cập, không minh bạch hoặc các quy định tạo căn cứ để các cơ quan chức năng có thể can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; cần bảo đảm môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp tự chủ, tự quyết, tự lực. Sớm khắc phục tình trạng thiếu ổn định của các quy định thể chế, sự trùng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định, sự thiếu kết nối giữa các cơ quan quản lý nhà nước, sự tắc nghẽn về kỹ thuật, thông tin kém minh bạch… vẫn đang là những vấn đề nổi cộm trong thể chế thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam phát triển hiện nay.

Tình trạng thiếu minh bạch và thiếu công khai thông tin về cơ hội tiếp cận nguồn lực, dự án cũng là trở lực cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam. Việc công khai các kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển còn chậm và chung chung khiến cho doanh nghiệp khó có thể biết chính xác thông tin từ phía cơ quan quản lý. Nếu những bất cập trên tiếp tục tồn tại sẽ khó tạo ra bước phát triển mang tính đột phá của doanh nghiệp Việt Nam, với vai trò là lực lượng nòng cốt của một nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Việc cải thiện môi trường kinh doanh để doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trong thời gian tới cần quan tâm xóa bỏ cơ chế xin - cho, xây dựng thể chế môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, đề cao kỷ luật thị trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp không kể thành phần sở hữu, cần được tạo mọi điều kiện theo quy định của pháp luật để phát triển, hình thành nên cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam ngày càng lớn mạnh, tiến bộ.

Thứ hai, nhanh chóng hoàn thiện các thể chế phòng vệ phù hợp với thể chế quốc tế để bảo vệ lợi ích doanh nghiệp Việt Nam, thị trường trong nước. Đây là việc khó, bởi lẽ, với hệ thống thể chế quốc tế đồ sộ, việc am hiểu một cách thấu đáo những khía cạnh của các quy định đa phương, song phương, từ đó điều chỉnh nội luật hóa hệ thống thể chế trong nước phù hợp là thách thức lớn đối với cộng đồng doanh nghiệp cũng như bản thân các cơ quan quản lý.

Vì vậy, cần tích cực triển khai xây dựng các thể chế phòng vệ phù hợp, là việc làm vừa có ý nghĩa trước mắt, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ. Sớm rà soát, xây dựng đồng bộ các thể chế phòng vệ về kỹ thuật, bảo hộ hợp lý theo lộ trình các loại thị trường và các yếu tố thị trường để tạo cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp hỗ trợ thích hợp cho sự lớn mạnh của doanh nghiệp Việt Nam.

Khác với con đường phát triển của các doanh nghiệp hàng đầu Nhật Bản, Hàn Quốc những thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chịu sự chế định rất chặt chẽ bởi các quy định về thể chế trong các tổ chức đa phương, song phương mà Việt Nam tham gia. Do đó, vai trò “bà đỡ” của Nhà nước đối với cộng đồng doanh nghiệp không thể thực hiện được một cách đơn giản theo ý muốn chủ quan, mà cần thông qua một hệ thống thể chế phòng vệ thích đáng, mạnh, có chất lượng.

Thứ ba, chú trọng xây dựng thể chế về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về môi trường quốc tế. Sự khó khăn nhiều mặt trong việc am hiểu môi trường quốc tế sẽ có thể khắc phục được khi chúng ta có được đội ngũ nhân lực tham gia hoạt động trong môi trường quốc tế đủ mạnh, đủ đức, đủ tài. Muốn vậy, hệ thống thể chế liên quan đến tổ chức đào tạo, sử dụng, bố trí, phát triển đội ngũ cán bộ này cần thực chất, rõ ràng, đầu tư bài bản./.

-------------------------

(1), (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 135.

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 135 - 136.

(4) Xem: Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2021, Nxb. Thống kê, Hà Nội, tr. 21.

Theo PGS., TS. Ngô Tuấn Nghĩa - Viện trưởng Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh/Tạp chí Cộng sản