Quản lý nhà nước về năng lượng điện mặt trời ở Việt Nam

Nguyễn Đức Dương - Trường Đại học Công nghệ Đông Á

Nghiên cứu này tập trung làm rõ tiềm năng và cơ hội cho phát triển điện mặt trời ở Việt Nam. Nghiên cứu cũng phân tích thực trạng quản lý nhà nước về điện mặt trời ở Việt Nam, bao gồm thực trạng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách phát triển điện mặt trời, công tác quy hoạch phát triển, công tác tuyên truyền về năng lượng mặt trời, thực trạng cấp phép và triển khai các dự án điện mặt trời trên cả nước...

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Tại Việt Nam, nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch và nhập khẩu, trong khi than đá, dầu, khí đốt trên thế giới là hữu hạn và có nhiều biến động.

Việt Nam đã và đang tham gia các cam kết quốc tế như Mục tiêu phát triển bền vững - SDG 7 về việc chuyển đổi sang sản xuất và tiêu dùng năng lượng sạch, đảm bảo khả năng tiếp cận năng lượng giá cả phải chăng, đáng tin cậy, bền vững và hiện đại cho tất cả mọi người; SDG 13 về hành động khẩn cấp để chống lại biến đổi khí hậu (BĐKH) và các tác động của nó.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 tại Quyết định số 1658QĐ-TTg ngày 01/10/2021 (trong đó giải pháp chiến lược có liên quan là xây dựng các chính sách thúc đẩy chuyển dịch năng lượng theo hướng xanh, sạch, tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo (NLTT) đạt 15-20% trên tổng cung cấp năng lượng sơ cấp vào năm 2030…).

Trước bối cảnh đó, việc bổ sung, đa dạng hóa nguồn cung năng lượng từ NLTT là hết sức cần thiết, phù hợp với xu hướng thế giới và đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.

Phát triển lĩnh vực điện mặt trời tại Việt Nam

Mặc dù, Việt Nam vẫn phụ thuộc đáng kể vào nhiên liệu hóa thạch nhằm đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng và đang vượt quá nguồn cung, nhưng trong 2 năm gần đây, Việt Nam đã dần chuyển hướng sang NLTT.

Trong số các loại NLTT, năng lượng mặt trời nhận được sự quan tâm nhiều nhất từ, đặc biệt sau khi Nhà nước công bố giá điện hỗ trợ (FIT) đầu tiên vào năm 2017. Năng lượng mặt trời đã chứng kiến sự phát triển chưa từng có tại Việt Nam, với công suất tăng từ 105 MW năm 2018 lên hơn 16.500 MW vào tháng 12/2020, đưa Việt Nam trở thành thị trường năng lượng mặt trời lớn nhất ở Đông Nam Á.

Các động lực chính cho sự bùng nổ nhanh chóng của điện mặt trời tại Việt Nam bao gồm: (i) Tiềm năng sản xuất năng lượng mặt trời lớn của Việt Nam do được thiên nhiên ưu đãi với lượng nắng dồi dào mỗi năm, trung bình 1.600 - 2.700 giờ nắng hàng năm; (ii) Giá điện hỗ trợ (FIT) hấp dẫn và các chính sách hỗ trợ khác của Chính phủ (giảm thuế doanh nghiệp và thuế nhập khẩu, miễn tiền thuê đất); (iii) Cam kết của Nhà nước đối với an ninh năng lượng và phát triển bền vững như Thủ tướng Chính phủ đã tuyên bố tại Hội nghị Biến đổi khí hậu của Liên hợp quốc (COP26); (iv) Chi phí mô-đun điện mặt trời và các công nghệ liên quan trên thế giới.

Thực trạng quản lý nhà nước về năng lượng mặt trời ở Việt Nam

Về mặt chủ trương chính sách, Chính phủ đã đặt ra mục tiêu phát triển NLTT tại các văn bản: Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 đến 2020 có xét đến 2030, Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị.

Chiến lược phát triển NLTT của Việt Nam giai đoạn đến 2030 có xét đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2068/QĐ-TTg ngày 25/11/2015, trong đó đề ra tỷ lệ điện sản xuất từ NLTT (bao gồm cả thủy điện lớn và nhỏ) trong tổng điện năng sản xuất của quốc gia phải đạt 38% vào năm 2020; 32% vào năm 2030 và 43% vào năm 2050. Dự kiến các nguồn điện NLTT (bao gồm thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, và điện sinh khối) sẽ chiếm 21% tổng công suất nguồn điện của quốc gia vào năm 2030. Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị nêu rõ, tỷ lệ nguồn NLTT trong tổng cung năng lượng sơ cấp đạt 15-20% năm 2030 và 25-30% năm 2045, tương ứng tỷ lệ điện năng của NLTT trong tổng điện năng sản xuất toàn quốc là khoảng 30% năm 2030 và 40% năm 2045.

Để đạt được các mục tiêu NLTT trên, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế khuyến khích khác nhau cho các loại hình điện NLTT được đánh giá có tiềm năng lớn.

Trong thời gian gần đây, Chính phủ đã tác động đến quá trình chuyển dịch năng lượng sạch theo các hướng chính sau đây: (i) Chính sách vĩ mô: hình thành thị trường NLTT; (ii) Chính sách kinh tế: hỗ trợ, ưu đãi bằng giá, phí, thuế…; (iii) Chính sách nâng cao nhận thức, thông tin - tuyên truyền.

Thực hiện các Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia, đến nay Việt Nam đã xây dựng trên 100 trạm quan trắc để theo dõi các dữ liệu về NLMT trên khắp lãnh thổ Việt Nam. Cả nước có 76 dự án điện mặt trời đang trong quá trình triển khai đầu tư và đã đi vào hoạt động.

Hoạt động tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển điện mặt trời đã được tiến hành trên các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, đài truyền thanh, các loại báo điện tử.

Chính sách tài chính đối với NLTT đã được chú trọng. Các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng đã được hoàn thiện, bổ sung theo hướng khuyến khích phát triển các ngành NLTT, NLTT. Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất điện từ NLTT được miễn, giảm nhiều loại thuế phí và tiếp cận được với nguồn vốn vay lãi suất ưu đãi. Bên cạnh đó, các dự án NLTT còn được hưởng cơ chế giá cố định FiT, áp dụng trong vòng 20 năm. Nhờ vậy trong những năm gần đây NLTT có những bước phát triển vượt bậc. Điện NLTT đã đạt trên 5.500 MW và đóng góp mỗi tháng 3 tỷ kWh, chiếm khoảng 10% công suất và 6% sản lượng thương phẩm cả nước. Trong đó:

Điện mặt trời là nguồn NLTT phát triển mạnh nhất. Việt Nam hiện đã có 88 dự án điện mặt trời với tổng công suất gần 6.000 MW đã hòa vào lưới điện quốc gia. Điện mặt trời chiếm khoảng 10% tổng sản lượng điện cả nước, lớn hơn nhiều so với quy mô dự kiến theo quy hoạch điện điều chỉnh cho năm 2020 là 850MW và năm 2025 là 4.000MW. Trong đó, dự án quy mô nối lưới đạt khoảng 4.500 MW, điện mặt trời mái nhà trên 31.570 dự án với tổng công suất là 657,88 MWp. Trong số 88 dự án nối lưới thì có đến 81 dự án được đóng điện trong giai đoạn tháng 4-6/2019 để được hưởng cơ chế ưu đãi về giá ưu đãi là 9,35cent/kWh trong 20 năm.

Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về điện mặt trời ở Việt Nam

Để tiếp tục nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về điện mặt trời tại Việt Nam, các giải pháp cần tập trung thực hiện gồm:

Một là, ban hành bộ tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật: Nhà nước cần ban hành bộ tiêu chuẩn cho các thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời và thực hiện kiểm nghiệm chất lượng, hiệu suất các sản phẩm nhập khẩu và sản xuất kinh doanh trong nước để hạn chế việc lưu thông các sản phẩm kém chất lượng, định hướng cho người dân và nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng mặt trời.

Để đạt được mục tiêu đưa điện mặt trời hòa vào dòng điện quốc gia phục vụ cho toàn xã hội về năng lượng, Chính phủ cần ban hành những văn bản cụ thể để áp dụng riêng cho năng lượng mặt trời để “cởi trói” cho việc phát triển điện mặt trời. Cụ thể: (i) Ban hành chuẩn kỹ thuật cho việc Điện mặt trời nối lưới; (ii) Cho phép bán vào lưới giá 1 KWh ĐMT gấp 1-1,5 giá điện trần và giá giờ cao điểm và có hợp đồng mua điện trong 15-20 năm nhằm thu hút nhà đầu tư.

Hai là, đẩy mạnh quy hoạch phát triển điện mặt trời: Trước hết, các cơ quan quản lý điện lực cần phối hợp với địa phương rà soát, đánh giá đúng tiềm năng về điện mặt trời, quy hoạch sử dụng đất dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương để xây dựng quy hoạch cụ thể, cũng như các dự án thu hút đầu tư.

Để tiết kiệm quỹ đất, cũng như tránh khó khăn về đền bù, giải phóng mặt bằng, khi xây dựng quy hoạch cần tận dụng diện tích mặt các hồ, hồ thủy điện, thủy lợi... để phát triển mặt trời. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo điều kiện thu xếp quỹ đất để chủ đầu tư thực hiện các dự án điện mặt trời. Các cơ quan quản lý điện lực cần tăng cường công tác giám sát cung – cầu điện, giám sát tiến độ thực hiện các dự án nguồn và lưới điện trong quy hoạch được phê duyệt, để đảm bảo các dự án sớm đi vào hoạt động và cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, tăng cường thông tin tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, cộng đồng về phát triển và sử dụng năng lượng điện mặt trời: Đẩy mạnh tuyên truyền và phổ biến đến mọi người dân về tầm quan trọng, hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường to lớn của việc phát triển và sử dụng năng lượng điện mặt trời trong quá trình phát triển bền vững, để thay đổi hành vi sử dụng điện của người dân từ sử dụng năng lượng truyền thống sang sử dụng năng lượng điện mặt trời.

Các cơ quan quản lý điện lực cần tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác tuyên truyền. Việc xây dựng đội ngũ tuyên truyền này hết sức quan trọng, vừa mang tính chất tư vấn, vừa mang tính chất định hướng, góp phần tạo thuận lợi và thu hút sự tham đầu tư cho phát triển điện mặt trời.

Bốn là, cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực điện mặt trời: Việc hoàn thiện các thủ tục hành chính liên quan trực tiếp đến cấp giấy phép cho các dự án điện mặt trời là giải pháp quan trọng để góp phần thúc đẩy việc thực thi chính sách điện mặt trời. Việc thẩm định, phê duyệt các dự án điện mặt trời hiện nay đang được cho là quá trình tốn nhiều thời gian, việc loại bỏ những thủ tục rườm rà, không cần thiết, sẽ giúp tiết kiệm thời gian, nguồn lực trong việc cấp giấy phép cho các dự án điện mặt trời.

Đồng thời, Nhà nước cần đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính liên quan đến việc cấp phép cho các dự án điện mặt trời để giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính cho Nhà nước và doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước về điện lực cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục lập, thẩm định, xét duyệt và cấp phép các dự án đầu tư sản xuất điện mặt trời. Hoàn thiện các quy định về trình tự, thủ tục về miễn thuế, phí đối với các dự án điện mặt trời trên mái nhà.

Năm là, thành lập Quỹ hỗ trợ tài chính cho phát triển và sử dụng năng lượng điện mặt trời: Nhà nước cần thành lập Quỹ phát triển năng lượng bền vững. Quỹ này hoạt động trên cơ sở nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn thu từ phí môi trường đối với nhiên liệu hóa thạch, các nguồn tài trợ, đóng góp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, và các nguồn vốn hợp pháp khác nhằm hỗ trợ tài chính cho các hoạt động khuyến khích phát triển ngành năng lượng sạch trên phạm vi cả nước.

Ưu tiên cho các nghiên cứu liên quan đến phát triển và sử dụng tài nguyên năng lượng mặt trời trong lĩnh vực phát triển khoa học, công nghệ và phát triển công nghiệp công nghệ cao; bố trí kinh phí từ các quỹ để hỗ trợ các nghiên cứu khoa học và công nghệ tại các dự án thí điểm, dự án công nghiệp hoá cho phát triển và sử dụng năng lượng mặt trời, thúc đẩy sự tiến bộ của công nghệ liên quan đến sự phát triển và sử dụng năng lượng mặt trời, giảm chi phí sản xuất của các sản phẩm năng lượng mặt trời và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Sáu là, phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực điện mặt trời: Nâng cao năng lực quản lý và phát triển nguồn năng lượng điện mặt trời ở các cấp thông qua các biện pháp: (i) Khuyến khích và hỗ trợ các trường đại học, các cơ sở dạy nghề phát triển giáo trình và giảng dạy các môn học mới liên quan tới NLTT, đặc biệt là ưu tiên cho năng lượng điện mặt trời; (ii) Khuyến khích, hỗ trợ công tác nghiên cứu và phát triển năng lượng điện mặt trời trong các tổ chức nghiên cứu khoa học kỹ thuật, đặc biệt đối với việc nghiên cứu sâu các công nghệ năng lượng điện mặt trời đặc thù, phù hợp với điều kiện của Việt Nam; (iii) Xây dựng kế hoạch hợp tác ngắn và dài hạn với các tổ chức quốc tế trong việc phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và tập huấn về năng lượng điện mặt trời. Khuyến khích và hỗ trợ phát triển các dịch vụ và các tổ chức tư vấn trong lĩnh vực năng lượng điện mặt trời. Tăng cường hợp tác với nước ngoài trong đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu khoa học về điện mặt trời.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực năng lượng mặt trời: Tăng cường hợp tác quốc tế để thu hút nguồn vốn và thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực năng lượng mặt trời. Chủ động tiếp nhận, làm chủ và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, thành tựu khoa học mới trong lĩnh vực phát triển và sử dụng nguồn năng lượng điện mặt trời trên thế giới để phát triển nhanh, mạnh và bền vững ngành năng lượng điện mặt trời ở Việt Nam. Tăng cường hợp tác song phương, mở rộng hợp tác đa phương với các nước có ngành công nghiệp năng lượng điện mặt trời phát triển, với các tổ chức, cá nhân nước ngoài giàu tiềm lực để học hỏi kinh nghiệm trong việc phát triển năng lượng điện mặt trời.

Tám là, áp dụng cơ chế đấu thầu các dự án điện mặt trời: Triển khai thực hiện đấu thầu các dự án điện mặt trời theo hướng công khai, minh bạch, để giảm chi phí đầu tư và từ đó giá bán điện của dự án. Tuy nhiên, các hồ sơ dự thầu phải đảm bảo tiêu chí: Chất lượng điện ổn định, công nghệ tiên tiến nhất và phù hợp nhất với điều kiện kỹ thuật Việt Nam. Mở rộng cho đầu tư kinh doanh điện mặt trời ở Việt Nam trên tinh thần ưu tiên bảo hộ các đơn vị, công ty có yếu tố Việt nhằm đảm bảo cho phát triển bền vững, an ninh năng lượng và giữ thị trường nội địa cho các doanh nghiệp có yếu tố Việt.

Tài liệu tham khảo:

  1. Lan Anh (2018), Triển vọng việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam, số 16/2018;
  2. Bộ Chính trị (2020), Nghị quyết số 55-NQ/TW về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
  3. Nguyễn Hùng Cường (2017), Chính sách năng lượng tái tạo của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Khoa học xã hội;
  4. Nhân Hà (2018), Những rào cản khiến năng lượng tái tạo ở Việt Nam khó phát triển, Tạp chí điện tử Nhà đầu tư;
  5. Nguyễn Mạnh Hiền (2019), Tổng quan về tiềm năng và triển vọng phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam, Tạp chí Năng lượng Việt Nam;
  6. Huy Hoàng (2018), Khánh thành Nhà máy điện mặt trời TTC Krông Pa, Tạp chí Môi trường;
  7. Phan Ngô Tống Hưng, Nguyễn Thành Sơn, Điện mặt trời Trung Quốc (Bài học thứ nhất): Kiến tạo của Chính phủ, 2019, Tạp chí Năng lượng Việt Nam;
  8. Phạm Thị Xuân Mai (2006), Nhật Bản với việc sử dụng năng lượng tái tạo, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 6, tr 31- 35;
  9. Phạm Thị Thanh Mai, Nguyễn Vĩnh Thụy (2014), Nghiên cứu một số phương án sử dụng nguồn năng lượng tái tạo cho phát điện ở Việt Nam, Tạp chí khoa học;
  10. Thảo Miên (2019), Việt Nam ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo,
    Thời báo Tài chính.
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 12/2022