Tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia trên thế giới
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm tra lại tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế của 36 nước thu nhập cao trên thế giới, tìm kiếm những bằng chứng thực nghiệm để củng cố thêm các lý thuyết trước đó, mặt khác là cơ sở để đưa ra những gợi ý về mặt chính sách phù hợp. Kết quả nghiên cứu trong giai đoạn 1999-2018 cho thấy, nợ công tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế đối với nhóm nước thu nhập cao.
Cơ sở lý luận và bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
Hiện nay, vẫn tồn tại các quan điểm khác nhau khi xem xét mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế. Trong đó, có 2 quan điểm phổ biến nhất: Một là, nợ công tác động tích cực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quan điểm này được đại diện bởi nhà kinh tế học J., M. Keynes (1883-1946); Hai là, nợ công tác động tiêu cực, cản trở tăng trưởng kinh tế.
Đây là quan điểm của nhà kinh tế học David Ricardo (1772-1832). Cả hai quan điểm này đều dựa vào hành vi của người tiêu dùng khi các chính sách vay nợ được thực hiện nên việc quan điểm nào phù hợp hơn sẽ phụ thuộc vào từng thời điểm khác nhau, cho mỗi quốc gia khác nhau. Chính vì vậy, đến nay, cả hai quan điểm này vẫn đang tồn tại song hành.
Quan điểm nợ công tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế: Kinh tế học Keynes (do nhà kinh tế học người Anh tên John Maynard Keynes đề xuất) cho rằng, nợ công vừa phải (cũng có thể xem là nợ bền vững) sẽ giúp kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc gia tăng nguồn lực cho chính phủ, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Nợ công vừa phải sẽ giúp chính phủ có nguồn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, gia tăng chi tiêu, từ đó làm gia tăng tổng cầu về hàng hóa, dịch vụ, tăng sản lượng, việc làm.
Có thể kể đến, một số các nghiên cứu ủng hộ cho quan điểm này như Abbas, S. M., & Christensen, J. (2007) trong nghiên cứu đối với mẫu gồm 93 quốc gia có thu nhập thấp và nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn từ 1975 đến 2004. Theo nghiên cứu này, nợ công tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua các kênh cải thiện chính sách tiền tệ, phát triển thị trường tài chính rộng hơn, cải thiện thể chế và trách nhiệm giải trình, tăng cường tiết kiệm và phát triển trung gian tài chính.
Một nghiên cứu khác thực hiện trên mẫu gồm 12 quốc gia thuộc khu vực châu Âu của Baum, A., Checherita-Westphal, C., & Rother, P. (2013) trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2010 cho thấy, nợ công có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn. Tuy nhiên, nếu nợ công vượt ngưỡng 67% thì tăng trưởng kinh tế sẽ giảm. Một vài kết quả nghiên cứu khác cũng ủng hộ quan điểm này, tuy nhiên ngưỡng nợ có thể khác nhau như Dreger, C., & Reimers, H. E. (2013); Antonakakis, N. (2014); Võ Hữu Phước và Nguyễn Quyết (2016); Markus Ahlborn & Rainer Schweickert (2018)…
Quan điểm nợ công tác động cản trở tăng trưởng kinh tế: Theo lý thuyết cân bằng Barro - Ricardo trong tài chính công của David Ricardo và được phát triển bởi Barro sau này, việc chính phủ chọn tài trợ cho chi tiêu của mình thông qua vay nợ hay cắt giảm thuế thì tác động của nó là như nhau đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này được lý giải là do khi chính phủ cắt giảm thuế và sử dụng vay nợ để tài trợ cho chi tiêu thì khu vực tư nhân có xu hướng gia tăng tiết kiệm tương đương với khoản chi tiêu thâm hụt hiện tại để bù đắp cho khoản tăng thuế trong tương lai, vì vậy thay đổi ròng đối với tổng chi tiêu bằng không.
Nhiều nghiên cứu ủng hộ quan điểm này. Cụ thể có nghiên cứu của Canner và cộng sự (2010) cho mẫu gồm 79 quốc gia phát triển và đang phát triển trong giai đoạn từ 1980 đến 2008; nghiên cứu cho mẫu gồm 12 nước thuộc khu vực châu Âu trong giai đoạn từ 1970 đến 2008 của Checherita-Westphal, C., & Rother, P. (2012); nghiên cứu của Egert (2013) cho mẫu gồm 17 quốc gia thuộc khối OECD trong giai đoạn từ 1970 đến 2005 của Panizza.
Phương pháp nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu và mô tả biến
Nghiên cứu này kế thừa nghiên cứu của Woo và Kumar (2015), có sự điều chỉnh bớt một số biến kiểm soát với mục tiêu tập trung nghiên cứu tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Mô hình cụ thể như sau:
Trong đó:
Y là tăng trưởng kinh tế, ∆Y_(i,t) là tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người thực của quốc gia i qua một chu kỳ 5 năm và được tính bằng cách lấy Log(yit) – Log(yi,t-4).
log(Yi,t-4) là yếu tố quyết định nội sinh đưa vào mô hình nhằm kiểm soát hiệu ứng hội tụ cũng như phản ánh quá trình tăng trưởng GDP bình quân đầu người trong một chu kỳ.
DEBTi,t-4 là tỷ lệ nợ công trên GDP, trong đó nợ công được xác định là tổng nợ của chính phủ vào thời điểm cuối năm.
HUMANi,t-4 là vốn con người, được đo bằng số năm đi học trung học trung bình.
INFLATi,t-4 là tỷ lệ lạm phát, được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI.
QMCPi,t-4 là quy mô chính phủ, được đo bằng tổng chi tiêu tiêu dùng của chính phủ trên GDP.
TOi,t-4 là độ mở thương mại, được đo bằng tổng giá trị xuất khẩu, nhập khẩu trên GDP.
DEFICITi,t là thâm hụt ngân sách, được tính bằng chênh lệch giữa tổng thu và tổng chi ngân sách của chính phủ.
ρi là tác động cố định theo đối tượng, τ_t là tác động cố định theo thời gian, ε_it là sai số của mô hình, i là đại diện cho quốc gia (i = 1,92), t là tại thời điểm cuối chu kỳ, t-4 là tại thời điểm đầu chu kỳ và β_j là các hệ số của mô hình hồi quy.
Dữ liệu và phương pháp xử lý
Dữ liệu tính toán được thu thập chủ yếu từ các tổ chức uy tín như Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế trong khoảng thời gian từ 1999 đến 2018 cho mẫu gồm 36 quốc gia có thu nhập theo tiêu chi phân loại của Ngân hàng Thế giới năm 2018.
Mô hình trong nghiên cứu này là một mô hình dữ liệu bảng động do đó tác giả đã sử dụng phương pháp GMM, nhằm khắc phục vấn đề nội sinh của biến tăng trưởng kinh tế kỳ trước xuất hiện trong mô hình. Tuy nhiên, để gia tăng thuyết phục cho kết quả được ước lượng tác giả cũng sử dụng thêm phương pháp POLS và mô hình tác động cố định (FE). Ngoài ra, tác giả cũng thực hiện các kiểm định cần thiết để xem xét sự phù hợp của mô hình được lựa chọn như kiểm định Hausman, kiểm định Sargan.
Thảo luận kết quả nghiên cứu
Dữ liệu thống kê mô tả ở Bảng 1 cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân một chu kỳ đối với các nước có thu nhập cao đạt 16,56%, với độ lệch chuẩn là 10,11%; nợ công bình quân đối với các nước có thu nhập cao là 59,91% với độ lệch chuẩn là 41,06%. Giá trị độ lệch chuẩn của biến tăng trưởng kinh tế cho thấy, không có sự chênh lệch quá lớn giữa các nước trong nhóm nghiên cứu. Vì vậy, việc ước lượng mô hình hồi quy cho mẫu phản ánh tương đối chính xác tình hình của các nước trong mẫu nghiên cứu.
Kết quả kiểm định Hausman cho thấy, mô hình hiệu ứng cố định FEM là phù hợp nhất trong ba mô hình POLS, REM và FEM đối với phương trình (1). Tuy nhiên, như tác giả đã trình bày, để khắc phục các hiện tượng nội sinh, tự tương quan, phương sai sai số thay đổi trong mô hình, tác giả sử dụng phương pháp ước lượng SGMM.
Kết quả ước lượng các hệ số của mô hình hồi quy bằng phương pháp SGMM trong Bảng 2 cho thấy, hầu hết các hệ số ước lượng đều có ý nghĩa thống kê cho mẫu nghiên cứu. Hệ số nợ công ở các quốc gia thuộc nhóm thu nhập cao có quan hệ cùng chiều với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Kết quả này ủng hộ cho một số kết quả nghiên cứu của Abbas, S. M., & Christensen, J. (2007), Dreger, C., & Reimers, H. E. (2013); Antonakakis, N. (2014); Võ Hữu Phước và Nguyễn Quyết (2016); Markus Ahlborn & Rainer Schweickert (2018). Điều này cho thấy, các nước thu nhập cao hoặc là đã tận dụng tốt chính sách nợ công để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hoặc là mức nợ công vẫn còn trong ngưỡng mà ở đó nó chưa có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Một số kết quả nghiên cứu khác liên quan đến các biến kiểm soát như thâm hụt ngân sách và quy mô chính phủ tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, lạm phát và độ mở thương mại có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Gợi ý chính sách
Nghiên cứu này kiểm tra ảnh hưởng của nợ công đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của của 36 quốc gia thu nhập cao theo phân loại của Ngân hàng Thế giới trong giai đoạn từ 1999 đến 2018. Tác giả thực hiện các phương pháp và kiểm định cần thiết để ước lượng hệ số hồi quy như POLS, FEM, REM và SGMM. Kết quả ước lượng bằng phương pháp SGMM cho thấy, nợ công có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế đối với các quốc gia có thu nhập cao.
Từ kết quả nghiên cứu thu được, tác giả đề xuất, các nước thuộc nhóm thu nhập cao cần nỗ lực trong việc giữ vững mức nợ công hiện tại, đồng thời thực hiện phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như kiểm soát lạm phát để nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Ngoài ra, cần kiểm soát quy mô chính phủ, mức độ thâm hụt ngân sách hợp lý để việc tài trợ cho các khoản chi tiêu tiêu dùng của chính phủ thông qua thâm hụt ngân sách tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
Tài liệu tham khảo:
1. Baum, A., Checherita-Westphal, C., & Rother, P. (2013). Debt and growth: New evidence for the euro area. Journal of International Money and Finance, 32, 809-821;
2. Calderón, C., & Fuentes, J.R. (2013). Government Debt and Economic Growth. InterAmerican Development Bank Working Paper Series, No.IDB-WP-424;
3. Chalk, N., & Tanzi, V. (2002). Impact of large public debt on growth in the EU.The behaviour of fiscal authorities, Basingstoke, Palgrave;
4. Checherita-Westphal, C., & Rother, P. (2012). The impact of high government debt on economic growth and its channels: An empirical investigation for the euro area. European Economic Review, 56(7), 1392-1405.