Tác động của việc thu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải
Ngày 21/11/2024, Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải. Đây là quy định mới nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường của tổ chức, cá nhân, cũng như toàn xã hội; đồng thời, quy định mới này kỳ vọng sẽ hỗ trợ hiệu quả việc giảm phát thải khí thải công nghiệp, tăng cường quản lý, giám sát của Nhà nước, tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh. Bài viết này phân tích, đánh giá các yếu tố tác động của chính sách này đến bảo vệ môi trường đối với khí thải.
Đặt vấn đề
Ở Việt Nam, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, chất lượng môi trường không khí tại các thành phố lớn, một số khu công nghiệp, làng nghề đang bị ô nhiễm nghiêm trọng đã ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ cộng đồng, thiệt hại đối với nền kinh tế, đe dọa tới môi trường. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là do sự gia tăng phát thải khí thải từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và từ các phương tiện giao thông vận tải.
Do đó, bảo vệ môi trường (BVMT) là yêu cầu cấp thiết được Đảng, Nhà nước quan tâm và xác định “BVMT là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân”. Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định phí BVMT đối với khí thải đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Chính phủ về BVMT không khí, thể hiện cụ thể ở các yếu tố tác động.
Đối tượng chịu phí bảo vệ môi trường đối với khí thải
Tính đến nay, cả nước có hàng chục khu tổ hợp, liên hợp trong đó tập trung nhiều dự án, loại hình sản xuất bauxite, gang thép, lọc hóa dầu, trung tâm điện lực, hàng ngày xả thải khối lượng lớn khí thải công nghiệp. Theo số liệu thống kê có gần 120.000 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong đó có 138 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 1788/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đến năm 2020, chưa hoàn thành xử lý triệt để; khoảng 110.000 doanh nghiệp (DN) xây dựng, hoạt động xây dựng nhà ở, khu chung cư, khu đô thị mới, cầu đường, khai thác và vận chuyển vật liệu xây dựng, phế thải diễn ra khắp nơi trong cả nước. Các cơ sở này phát sinh khối lượng lớn khí thải công nghiệp, bụi thải, tác động xấu đến môi trường.
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định đối tượng chịu phí BVMT đối với khí thải là bụi, khí thải công nghiệp xả ra môi trường phải được xử lý của các dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc đối tượng phải có giấy phép môi trường theo quy định của pháp luật về BVMT, trong đó quy định việc cấp phép xả khí thải.
Theo đó, cơ sở xả khí thải theo quy định tại Nghị định này bao gồm: Cơ sở sản xuất gang, thép, luyện kim (trừ cán, kéo, đúc từ phôi nguyên liệu); cơ sở sản xuất hóa chất vô cơ cơ bản (trừ khí công nghiệp), phân bón vô cơ và hợp chất ni tơ (trừ phối trộn, sang chiết, đóng gói), thuốc bảo vệ thực vật hóa học (trừ phối trộn, sang chiết); cơ sở lọc, hoá dầu; cơ sở tái chế, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải rắn công nghiệp thông thường, chất thải nguy hại; sử dụng phế liệu nhập khẩu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; cơ sở sản xuất than cốc, sản xuất khí than; nhà máy nhiệt điện; cơ sở sản xuất xi măng; các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khác có phát sinh bụi, khí thải công nghiệp.
Từ ngày 05/01/2025, khi quy định phí BVMT đối với khí thải có hiệu lực thi hành, các cơ sở xả khí thải sẽ có các động thái tích cực để tránh trả phí. Cơ sở xả khí thải sẽ xem xét, chuyển đổi sang các hoạt động phát thải các khí thải thấp không phải chịu phí. Do vậy, họ sẽ đẩy mạnh việc áp dụng các mô hình kinh doanh bền vững hơn và giảm phát thải khí nhà kính. Trong trường hợp khác, cơ sở xả khí thải có thể sẽ tăng đầu tư vào nghiên cứu và đổi mới công nghệ, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch. Do vậy, các cơ sở xả khí thải có xu huớng phát triển các công nghệ mới và khơi thông dòng tài chính đầu tư cho công nghệ thân thiện với khí hậu. Trong dài hạn, công nghệ máy móc hiện đại sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của cơ sở xả khí thải.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, phí BVMT đối với khí thải sẽ làm tăng giá các hoạt động gây phát thải, do vậy làm tăng chi phí của DN, ảnh hưởng đến lợi nhuận ròng của cơ sở xả khí thải, từ đó ảnh hưởng đến việc mở rộng khả năng sản xuất của cơ sở xả khí thải và ảnh hưởng đến việc làm của công nhân trong nhà máy.
Như vậy, phí BVMT đối với khí thải được áp dụng trực tiếp đến hoạt động phát thải, tạo động lực thúc đẩy tổ chức, cá nhân có hoạt động gây ô nhiễm tìm phương pháp hiệu quả làm giảm ô nhiễm môi trường. Với công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, DN, cơ sở sản xuất sẽ hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm bớt số phí phải nộp, tiết kiệm được chi phí sản xuất kinh doanh, nâng cao tính cạnh tranh và tăng lợi nhuận. Do đó, sẽ khuyến khích DN đầu tư công nghệ thân thiện với môi trường, vì lợi ích của DN nói riêng, cũng như lợi ích của toàn xã hội nói chung.
Đối với các cơ sở xả khí thải
Phần lớn các tổ chức, cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí chưa ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình trong BVMT, do khí thải gây ra. Do đó, qua việc nộp phí BVMT đối với khí thải, các cơ sở xả khí thải là đối tượng nộp phí sẽ có được nhận thức về hành vi phát thải ra môi trường; đồng thời dần hình thành ý thức BVMT, hạn chế hành vi gây ô nhiễm môi trường thông qua việc giảm thiểu số phí phải nộp. Việc áp dụng phí BVMT đối với khí thải ở Việt Nam là nhất quán với các mục tiêu giảm phát thải cụ thể của Chính phủ như cam kết trong Nghị định thư Montreal.
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP được ban hành góp phần bảo đảm chính sách phí BVMT đối với khí thải đồng bộ, thống nhất với pháp luật phí, lệ phí, pháp luật BVMT và pháp luật quản lý thuế, phù hợp với các nước trong khu vực; bảo đảm chính sách phí BVMT đối với khí thải công khai, minh bạch, khả thi. Đồng thời, Nghị định này góp phần tạo thuận lợi cho người dân, DN và cơ quan thuế trong thực hiện chính sách phí BVMT; đảm bảo đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo thuận lợi và giảm chi phí tuân thủ cho người nộp phí và cơ quan thu phí trong quá trình thực hiện.
Nội dung quy định tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP đã bao quát được các cơ sở có phát thải khí thải bao gồm cả cơ sở thuộc đối tượng phải quan trắc khí thải và cơ sở không thuộc đối tượng phải quan trắc khí thải; đảm bảo tính khả thi trong tính toán được số phí phải nộp của người nộp phí, cũng như có cơ sở để thẩm định phí của cơ quan có thẩm quyền.
Cơ sở thuộc đối tượng không phải thực hiện quan trắc khí thải theo quy định tại Luật BVMT thì thực hiện thu phí cố định đối với đối tượng này. Cơ sở thuộc đối tượng phải quan trắc bụi, khí thải công nghiệp theo quy định tại Luật BVMT, phí BVMT đối với khí thải phải nộp trong kỳ bao gồm phí cố định và phí biến đổi (tính toán dựa trên các thông số các chất gây ô nhiễm). Do đó, Nghị định số 153/2024/NĐ-CP đảm bảo tính khả thi trong triển khai thực hiện.
Đối với môi trường
Việt Nam lần đầu tiên ban hành chính sách thu phí BVMT đối với khí thải, nên trong quá trình xây dựng chính sách có ý kiến cho rằng, cần nghiên cứu và áp dụng có lộ trình đối với một số loại khí thải như các nước hiện đang thu để đảm bảo tính khả thi và tranh thủ kinh nghiệm của các nước đã thực hiện, sau đó, mới tiếp tục đưa thêm đối tượng để chính sách đi vào cuộc sống một cách vững chắc.
Bên cạnh đó, mức thu phí cần đảm bảo hài hòa, tránh gây chi phí lớn cho DN. Trường hợp khoản phí BVMT cao hơn chi phí xử lý khí thải trước khi phát thải thì người sản xuất đương nhiên lựa chọn phương án xử lý khí thải. Nếu người sản xuất không xử lý khí thải thì phải nộp phí BVMT. Khi đó, Nhà nước có nguồn tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường, do khí thải gây ra.
Mức phí cao sẽ tạo động lực mạnh cho các cơ sở cắt giảm ô nhiễm nhưng hiệu quả về nguồn thu có thể sẽ không đạt được. Các cơ sở sẽ có xu hướng xử lý ô nhiễm để tránh phải trả phí cao. Mặc dù, việc áp dụng mức phí cao ngay từ đầu giúp cải thiện môi trường nhanh hơn, nhưng do gián tiếp gia tăng chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm của DN. Mức phí thấp có thể ít tạo áp lực về chi phí cho các cơ sở tại các nước đang phát triển; trong đó có Việt Nam, nhưng có thể không có tác dụng nhiều đối với việc cải thiện chất lượng môi trường.
Theo quy định tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP, phí BVMT đối với khí thải được áp dụng mức thu trên mỗi đơn vị phát thải (gồm: Bụi, SOx, CO, NOx). Mức thu phí đối với khí thải sẽ thúc đẩy người gây ô nhiễm giảm lượng khí nhà kính phát thải vào khí quyển bằng cách chuyển hướng sang các công nghệ các-bon thấp và giúp khuyến khích đổi mới và đầu tư vào các phương án giảm nhẹ phát thải. Phí BVMT sẽ đóng góp vào việc giảm phát thải khí độc hại như SOx, CO, NOx và đem lại lợi ích có liên quan tới cải thiện sức khỏe và giảm tỷ lệ tử vong.
Mức thu phí đối với mỗi thông số ô nhiễm bụi tổng SOx, NOx, CO tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP được căn cứ trên cơ sở xem xét chi phí đầu tư, vận hành công trình xử lý khí thải, để xử lý các thông số này từ mức được quy định trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải đạt ngưỡng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng môi trường không khí xung quanh.
Như vậy, theo quy chuẩn, các nhà sản xuất phải từng bước thay đổi mô hình sản xuất và tiêu dùng theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng, tăng cường sử dụng các nguyên vật liệu, năng lượng tái tạo, sản phẩm thân thiện môi trường, giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế chất thải, duy trì tính bền vững của hệ sinh thái tại tất cả các khâu trong vòng đời sản phẩm từ khai thác, cung ứng nguyên liệu đến sản xuất chế biến, phân phối, tiêu dùng và thải bỏ sản phẩm.
Đối với ngân sách nhà nước
Việc thu phí BVMT đối với khí thải sẽ tạo ra nguồn thu đối với ngân sách nhà nước (NSNN). Khi số thu được chuyển vào ngân sách, việc tăng chi tiêu sẽ giúp đảm bảo các vấn đề an sinh xã hội, cũng như các vấn đề về môi trường. Như vậy, phí BVMT đối với khí thải trực tiếp tạo ra nguồn thu bổ sung cho NSNN. Nguồn thu này có thể được sử dụng để hỗ trợ việc phát triển các công nghệ các-bon thấp và sạch và các hoạt động giảm nhẹ phát thải, cũng như đầu tư cho phát triển bền vững tại quốc gia với quy mô lớn hơn.
Theo kết quả khảo sát tại một số địa phương của Bộ Tài chính (cơ quan được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Nghị định 153/2024/NĐ-CP), các cơ quan liên quan và các DN đã tính toán trung bình mỗi cơ sở xả thải sẽ nộp khoảng 10 triệu/1 năm (đối với DN xả thải không gây ô nhiễm môi trường lớn thì mức thu phí sẽ thấp hơn). Đây là mức thu tác động không lớn đến hoạt động kinh doanh, cũng như doanh thu của DN.
Với nguồn thu cho NSNN hàng năm khoảng 1.200 tỷ đồng (theo tính toán của Bộ Tài chính theo công thức 120.000 cơ sở x 10 triệu đồng/cơ sở) sẽ tăng cường nguồn NSNN phân bổ cho BVMT tại các địa phương; qua đó, góp phần giúp các địa phương chủ động có nguồn lực phục vụ công tác khắc phục các thiệt hại về ô nhiễm môi trường không khí trên địa bàn.
Ở nước ta, tổng thu từ thuế BVMT từ năm 2012 - 2016 là khoảng 105.985 tỷ đồng (tương đương khoảng 4,7 tỷ USD), trong khi tổng chi từ ngân sách cho BVMT giai đoạn 2012 - 2016 đạt khoảng 131.857 tỷ đồng (tương đương khoảng 5,8 tỷ USD); trong đó khoảng 89.131 tỷ đồng (tương đương khoảng 3,9 tỷ USD) là chi tiêu thường xuyên cho BVMT. Vì vậy, phí BVMT đối với khí thải sẽ là nguồn thu bổ sung cho nhiệm vụ chi cho BVMT.
Đối với nền kinh tế
Thực hiện thu phí BVMT đối với khí thải theo quy định tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP sẽ ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế. Bởi vì, phí được các DN xem là gánh nặng thêm do làm giảm biên lợi nhuận. Trong một số lĩnh vực như khai khoáng, điện, có thể sẽ chịu ảnh hưởng bất lợi về tính cạnh tranh so với các DN khác và các quốc gia không áp dụng phí; từ đó có thể ảnh hưởng đến mức sử dụng lao động trong một lĩnh vực cụ thể.
Riêng đối với người tiêu dùng, việc đánh phí BVMT lên phát thải, bao gồm phát thải CO sẽ làm tăng thêm gánh nặng đối với các đối tượng sử dụng. Do vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền chính sách để có được sự hỗ trợ của công chúng và thông tin rõ ràng về các lợi ích có liên quan ở mức độ môi trường và kinh tế. Tuy nhiên, tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP chưa thu phí BVMT đối với khí thải đối với các phương tiện giao thông, do đã có thuế BVMT đối với xăng dầu giúp ổn định các nhu cầu thiết yếu cơ bản của người tiêu dùng.
Đối với thủ tục hành chính
Để triển khai thực hiện thu phí, cần có quy định hướng dẫn cơ sở xả khí thải làm thủ tục kê khai. Thực hiện quy định tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP, cơ sở xả khí thải phải thực hiện kê khai và nộp phí. Theo đó, đối với cơ sở xả khí thải thuộc đối tượng phải quan trắc khí thải thực hiện kê khai và nộp phí theo quý; đối với cơ sở xả khí thải không thuộc đối tượng phải quan trắc khí thải thực hiện kê khai và nộp phí theo năm.
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định rõ việc kê khai và nộp phí riêng đối với một số trường hợp cụ thể, chẳng hạn như: Cơ sở xả khí thải mới đi vào hoạt động từ ngày Nghị định số 153/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành; cơ sở xả khí thải đang hoạt động trước ngày Nghị định số 153/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành...
Cơ sở xả khí thải thực hiện nộp phí và tiền chậm nộp phí (nếu có) cho tổ chức thu phí theo một trong các hình thức sau: Nộp phí theo hình thức không dùng tiền mặt vào tài khoản chuyên thu phí của tổ chức thu phí mở tại tổ chức tín dụng; Nộp phí vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách của tổ chức thu phí mở tại Kho bạc Nhà nước; Nộp phí qua tài khoản của cơ quan, tổ chức nhận tiền khác với tổ chức thu phí (áp dụng đối với trường hợp thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo quy định của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính).
Quy định về thủ tục kê khai và nộp phí của cơ sở xả khí thải tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP cơ bản đồng bộ với pháp luật quản lý thuế hiện hành; đảm bảo thuận tiện, minh bạch, đơn giản, dễ thực hiện đối với người nộp phí. Đối với tổ chức thu phí, quy định về thẩm định Tờ khai phí tại Nghị định số 153/2024/NĐ-CP đảm bảo thuận tiện, không phát sinh thêm thao tác, chi phí trong việc kê khai, thẩm định phí của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tại địa phương; đảm bảo tính chủ động cho tổ chức thu phí thực hiện công tác thu phí BVMT. Đồng thời, phần phí để lại cho tổ chức thu phí đảm bảo tính chủ động và đảm bảo kinh phí để thực hiện công tác thu phí BVMT đối với khí thải.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến việc tổ chức thực hiện Nghị định này, như: Bộ Tài nguyên và Môi trường; UBND cấp tỉnh (cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện thu, nộp phí BVMT đối với khí thải theo quy định); Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường (tổ chức thu phí); Cơ quan thuế (thực hiện quản lý về phí BVMT đối với khí thải đối với tổ chức thu phí theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Việc quy định trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp tỉnh, Sở Tài nguyên và Môi trường, Phòng Tài nguyên và Môi trường, cơ quan thuế đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tại địa phương trong kê khai, thẩm định, thu, nộp phí BVMT đối với khí thải.
Nghị định số 153/2024/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 05/01/2025. Việc nộp phí BVMT đối với khí thải theo quy định tại Nghị định này không là căn cứ xác nhận việc xả thải hợp pháp của cơ sở xả khí thải. Cơ sở xả khí thải vi phạm các quy định pháp luật về BVMT bị xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật về BVMT.
Tóm lại, Nghị định số 153/2024/NĐ-CP quy định phí BVMT đối với khí thải được ban hành, bên cạnh việc đã thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật phí đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tiễn BVMT. Nghị định này được kỳ vọng tác động tích cực đối với các cơ sở xả khí thải nhằm từng bước nâng cao ý thức BVMT của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.
Tài liệu tham khảo:
- Quốc hội, Luật Bảo vệ môi trường;
- Quốc hội, Luật Phí và lệ phí;
- Bộ Chính trị, Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2017 về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường;
- Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 về việc ban hành Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững;
- Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 450/QĐ-TTg ngày 13/4/2022 phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050;
- Trần Anh Tuấn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Phí bảo vệ môi trường đối với khí thải ở Việt Nam: Luận cứ khoa học và khuyến nghị” (2021);
- Bộ Tài chính (2024), Hồ sơ Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2024/NĐ-CP (Tờ trình số 14/TTr-BTC ngày 24/01/2024 và các văn bản kèm theo).