Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay


Hiện nay, chế định thừa phát lại đã cơ bản đạt được những kết quả bước đầu, góp phần tối ưu hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong đời sống dân sự, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động thừa phát lại hiện nay còn gặp khá nhiều khó khăn trong thực tiễn như: Nhận thức của một số cơ quan, cán bộ và xã hội về chế định thừa phát lại còn nhiều hạn chế; Đội ngũ thừa phát lại chưa được đào tạo bài bản... Thực tế này đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ sở lý luận, tổng kết, đánh giá thực tiễn, nhận diện những hạn chế, vướng mắc, xây dựng và kiện toàn hành lang pháp lý về thừa phát lại ở Việt Nam.

Tổng quan về chế định thừa phát lại

Chế định thừa phát lại (TPL) đã hình thành và phát triển khá lâu trên thế giới. Cái nôi cho sự phát triển, hành nghề TPL trên thế giới bắt nguồn từ Cộng hòa Pháp. Ở Việt Nam, chế định này đã tồn tại từ thời kỳ phong kiến nhưng chính thức được thừa nhận từ thời Pháp thuộc.

Tuy nhiên, từ khi có Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng” do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và vì nhiều lý do khác nhau mà sau năm 1950 (ở miền Bắc) và sau năm 1975 (ở miền Nam), Nhà nước ta không tiếp tục duy trì chế định này. Đến năm 2009, chế định TPL mới bắt đầu được khôi phục và thực hiện thí điểm theo định hướng xã hội hóa hoạt động thi hành án dân sự trên tinh thần Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự.

Nhận thức vai trò quan trọng của TPL và tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện chế định này được nhất quán, đồng bộ, ngày 18/10/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 135/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

Theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP, TPL là người được Nhà nước bổ nhiệm, hoạt động độc lập, được tiến hành thực hiện 4 nội dung chủ yếu sau: (i) Tống đạt giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; (ii) Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; (iv) Tổ chức thi hành án các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự.

Thông qua hoạt động, TPL ngày càng khẳng định địa vị pháp lý cũng như vai trò trong hoạt động tư pháp và xã hội hóa thi hành án dân sự. Đồng thời,  góp phần bảo đảm tốt hơn, tối ưu hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, của tổ chức trong đời sống dân sự, trong quan hệ với cơ quan nhà nước và trong các hoạt động tố tụng; Góp phần giảm thiểu áp lực cho Tòa án, cho cơ quan thi hành án, qua đó, giảm bớt tình trạng án tồn đọng. TPL còn góp phần xây dựng và tạo ra môi trường hành lang pháp lý rõ ràng và đảm bảo cho các giao dịch dân sự, kinh tế được thực hiện theo đúng pháp luật, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững.

Nghị quyết số 107/2015/QH14 ngày 26/11/2015 của Quốc hội về thực hiện chế định TPL được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII. Theo đó, Nghị quyết này cho phép chế định TPL được thực hiện chính thức trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016.

Theo thống kê của Bộ Tư pháp, đến hết năm 2017  đã phê duyệt Đề án thành lập Văn phòng TPL giai đoạn 2017-2018 của 14 địa phương, nâng tổng số các tỉnh thực hiện triển khai chế định TPL lên 22 tỉnh, thành phố (TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Đồng Nai, Bắc Ninh, Bình Thuận, Đà Nẵng, Long An, Cần Thơ, Đồng Tháp, Bình Phước, Cà Mau, Kiên Giang, Khánh Hoà, Hải Dương, Gia Lai, Phú Yên, An Giang, Sóc Trăng, Bến Tre, Đắk Lắk). Tổng số 13 địa phương đã thực hiện chế định TPL với tổng số nhân lực đang làm việc tại các văn phòng TPL là 643 người, trong đó, có 134 TPL, 295 thư ký nghiệp vụ và 214 nhân viên khác.  

Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp tổ chức thi hành án chiếm tỷ trọng nhỏ nhất, doanh thu của 02 loại công việc trên chỉ khoảng gần 8 tỷ đồng, chiếm 6% tổng doanh thu.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động TPL hiện nay gặp khá nhiều khó khăn như: Trong xã hội còn chưa nhận thức đúng và đầy đủ về mục đích, ý nghĩa, vai trò và chức năng của chế định TPL; Đội ngũ TPL chưa được đào tạo kỹ càng về chuyên môn, chưa có nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp.

Còn có sự chậm trễ trong xây dựng hành lang pháp luật, cơ sở pháp lý cao nhất cho việc thực hiện chế định TPL, do vậy, trong quá trình áp dụng và triển khai công việc TPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, làm phát sinh những bất cập trong hoạt động lập vi bằng, tống đạt của TPL và tổ chức thi hành án dân sự.

Cụ thể như, quy định của pháp luật thì cho phép vi bằng được sử dụng trong các quan hệ pháp lý khác, tuy nhiên việc quy định không cụ thể là các quan hệ pháp lý nào, cơ quan nào được phép sử dụng vi bằng, dẫn đến TPL gặp khó khăn, lúng túng trong việc tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn người dân sử dụng vi bằng, gây tâm lý e ngại về giá trị của vi bằng.

Mặt khác, một số cơ quan, UBND, công an xã, phường, cán bộ, công chức chưa hiểu đầy đủ về TPL nên công tác phối hợp còn hạn chế, không ít trường hợp cán bộ, công chức đã từ chối, không cung cấp yêu cầu xác minh của TPL, kéo dài thời gian thực hiện yêu cầu của TPL trong phối hợp thi hành án.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại

Chế định TPL tuy đã được Quốc hội cho pháp thực hiện chính thức trên phạm vi cả nước, nhưng để đảm bảo hoạt động này phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp và cải cách hành chính ở Việt Nam, thời gian tới cần tiếp tục kiện toàn hành lang pháp lý về TPL, tạo khuôn khổ pháp lý phát triển nghề TPL bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thi hành án.

Đồng thời, bảo đảm sự phát triển nghề TPL theo quy hoạch, có lộ trình rõ ràng, cụ thể, hướng tới tính bền vững và ổn định. Việc xây dựng đội ngũ TPL cần phải hướng tới chuyên nghiệp, có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt; Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động này phải vừa bảo đảm hiệu quả, vừa tạo điều kiện, hỗ trợ TPL nhưng đồng thời cũng phải kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh những vi phạm, sai sót.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định liên quan đến chức năng lập vi bằng của TPL (chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ việc dân sự, hành chính; Là căn cứ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các công việc thuộc chức năng, nhiệm vụ; Là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo quy định của pháp luật); Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án; Hoàn thiện pháp luật tổ chức thi hành án...

Việc sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan đến TPL là chưa đủ, mà còn phải đặt nó trong tổng thể hệ thống pháp luật nói chung, trước hết là pháp luật liên quan đến lĩnh vực này. Một số văn bản pháp luật có liên quan như: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sư, Bộ Luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng, Luật Doanh nghiệp.... cũng cần được nghiên cứu, rà soát và sửa đổi, bổ sung nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ, tăng cường hiệu quả khi thực hiện pháp luật về TPL.

Cùng với việc triển khai các nội dung trên, để chế định TPL được thực hiện có hiệu quả, trước mắt, cần tập trung triển khai một số vấn đề sau:

Thứ nhất, thống nhất chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương trong việc xây dựng chủ trương và thực hiện pháp luật về TPL.

Thứ hai, về xây dựng Luật TPL: Sau khi chế định TPL được chính thức thực hiện trên cả nước thông qua Nghị quyết số 107/2015/QH13 của Quốc hội có thể thấy, việc xây dựng Luật TPL là một nhiệm vụ cần thiết, cấp thiết và tối quan trọng cần được triển khai.

Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh và hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của TPL còn khá sơ sài, chỉ bao gồm: Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và các thông tư hướng dẫn. Trong khi đó, các hoạt động của TPL ngày càng phát triển mạnh mẽ và phổ rộng ở nhiều địa phương. Do đó, trong quá trình triển khai hoạt động đã gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Để giải quyết những bất cập này, đòi hỏi một hành lang pháp lý cao hơn, có tính chất nền tảng hơn.

Luật về TPL cần được nghiên cứu xây dựng theo hướng cụ thể hóa tất cả các vấn đề về tổ chức và hoạt động của TPL, bao gồm cả những quy phạm pháp luật có liên quan. Luật TPL cũng phải đảm bảo cụ thể hoá tinh thần và nội dung của Hiến pháp, định hướng cải cách tư pháp, cải cách thủ tục hành chính; đảm bảo sự phù hợp của chế định TPL với các quy định của các đạo luật lớn trong lĩnh vực tư pháp, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho các hoạt động của TPL. Quá trình hoàn thiện hành lang pháp lý TPL cũng cần lưu ý đến vấn đề mở rộng quyền hạn cho TPL, nhằm đảm bảo sự bình đẳng giữa TPL với Chấp hành viên.

Trên cơ sở đó, cần có những hướng dẫn áp dụng Luật TPL hợp lý và có giá trị thực tiễn cao; chú trọng quan tâm các vấn đề như: Quy định rõ tiêu chuẩn TPL và văn phòng TPL; về trình tự, thủ tục tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức thi hành án dân sự… Có như vậy, dịch vụ TPL mới thực sự đi vào đời sống xã hội và mang lại hiệu quả thiết thực.

Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biên, giáo dục pháp luật về TPL: TPL là chế định mới nên việc triển khai thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. Để người dân, tổ chức, doanh nghiệp hiểu biết hơn về pháp luật, đồng thuận, ủng hộ, tin tưởng và sử dụng dịch vụ TPL thì tuyên truyền, phổ biến văn bản pháp luật và hoạt động của TPL cần phải xúc tích và thực sự dễ hiểu.

Đồng thời, phải lựa chọn hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phổ biến về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò và ý nghĩa của TPL đến người dân, doanh nghiệp, chính quyền các cấp và các tổ chức có liên quan.

Việc tuyên truyền có thể được thực hiện thông qua các buổi tọa đàm, hội thảo hay thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội... hoặc qua những ấn phẩm về TPL. Bên cạnh đó, cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời và đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan và các địa phương. Đồng thời, phải tăng cường trách nhiệm, năng lực tổ chức thực hiện và sự phối hợp của các cơ quan trong việc thực hiện chế định TPL.

Thứ tư, tổ chức đào tạo nghề TPL: Để đảm bảo hoạt động của TPL đúng pháp luật, hiệu quả, mang lại những tác động tích cực cho người dân và xã hội, hạn chế sai phạm trong quá trình hoạt động, thời gian tới, cần phải phối, kết hợp với các cơ quan, ban, ngành để tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ làm TPL; Rà soát sát sao đội ngũ này, để từ đó, có những kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bổ sung, khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng hành nghề. Đồng thời, thường xuyên thanh tra, kiểm tra hoạt động của các văn phòng TPL để kịp thời nắm bắt những khó khăn và có những phương án, biện pháp khắc phục phù hợp.

Cùng với việc thực hiện các giải pháp nêu trên, cần tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, khoa học công nghệ để phục vụ tối đa cho hoạt động về TPL; Nghiên cứu kinh nghiệm các nước về xây dựng và thực hiện pháp luật về TPL để vận dụng phù hợp với điều kiện cải cách tư pháp ở Việt Nam.

Đồng thời, tăng cường hợp tác quốc tế về TPL, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà Việt Nam đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế TPL; Tổng kết, đánh giá thực tiễn, đặc biệt nhận diện những hạn chế, vướng mắc trong hoạt động TPL để có cơ sở nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật TPL.

Tài liệu tham khảo:

  1. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo chuyên đề – Một số vấn đề về tổ chức thi hành Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại, Hà Nội;
  2. Chính phủ (2015), Tổng hợp báo cáo tình hình hoạt động Thừa phát lại sau khi có Nghị quyết số 107/2025/QH13 của Quốc hội về thực hiện chế định về Thừa phát lại ngày 30/09/2016, Hà Nội;
  3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về việc thực hiện chế định Thừa phát lại, Hà Nội;
  4. Chính phủ (2013), Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ, Hà Nội;
  5. Chính phủ (2012),Báo cáo số 299/BC-CP ngày 23/10/2012 tổng kết thực hiện thí điểm Thừa phát lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội, Hà Nội;
  6. Chính phủ (2017),  Báo cáo số 439/BC-CP ngày 14/10/2017 của Chính phủ về công tác thi hành án năm 2017, Hà Nội.