Thu thuế dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam: Thực trạng và giải pháp


Kinh doanh thương mại điện tử ngày càng trở nên phổ biến và là xu thế tất yếu trong nền kinh tế số. Đặc biệt, từ khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát và lan rộng trên toàn cầu thì kinh doanh thương mại điện tử trên các nền tảng số đã giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong việc phân phối sản phẩm, cũng như mang lại nhiều thuận tiện cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, loại hình kinh doanh này cũng đặt ra một số khó khăn, thách thức đối với công tác quản lý thuế đòi hỏi cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Đặt vấn đề

Xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế cùng với toàn cầu hóa đã dẫn tới các nguồn lực như: vốn, công nghệ, lao động... của khu vực tư nhân được chuyển dịch dưới tác động của quy luật cung cầu thị trường, vươn ra khỏi biên giới của một quốc gia, góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại tự do toàn cầu phát triển nhanh chóng.

Để tạo cầu nối trong hoạt động giao thương hàng hóa giữa các quốc gia, công nghệ số bùng nổ, trở thành động lực cho sự phát triển của hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) xuyên biên giới. Mặc dù, mới xuất hiện từ những năm 2000 trên nền tảng thương mại quốc tế truyền thống nhưng TMĐT xuyên biên giới đã có bước phát triển nhanh chóng tại các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU), Bắc Mỹ và lan rộng sang châu Á - Thái Bình Dương và các nước trên thế giới (Nguyễn, 2020).

Khác với hình thức thương mại truyền thống, TMĐT xuyên biên giới đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và mang tính toàn cầu. Đặc biệt, TMĐT còn tạo cơ hội cho doanh nghiệp nâng cao doanh số bán hàng, đồng thời tìm kiếm mô hình hoạt động kinh doanh linh hoạt, tiết giảm chi phí, tối ưu nguồn lực để tiếp cận chuỗi cung ứng toàn cầu.

Thống kê cho thấy, doanh số thị trường TMĐT toàn cầu năm 2019 đạt 26,7 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu, bao gồm cả doanh số bán hàng giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) và doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C) (Hội nghị Liên Hợp quốc tế về thương mại và phát triển - UNCTAD, 2020).

Năm 2021, thị trường TMĐT toàn cầu đạt 4,89 nghìn tỷ USD. Khi đại dịch COVID-19 lan rộng toàn cầu thì TMĐT xuyên biên giới càng trở nên phổ biến (eMarketer, 2021). Khảo sát của Công ty Nghiên cứu thị trường của Hoa Kỳ (Forrester) cho thấy, năm 2020, khoảng 58% người tiêu dùng chọn chi tiêu trực tuyến, tăng 12% so với mức trước đại dịch COVID-19.

Báo cáo đánh giá về xu hướng mới trong ngành TMĐT xuyên biên giới tại Việt Nam của Amazon Global Selling nhận định, TMĐT xuyên biên giới đang có xu hướng phát triển nhanh chóng, nhất là từ năm 2020 đến nay thì TMĐT xuyên biên giới trở thành trạng thái “bình thường mới”.

Để chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, hầu hết các nước phải điều chỉnh chính sách thuế và pháp luật thuế nhằm tránh thất thu thuế, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, cũng như để phù hợp với quy định thông lệ quốc tế.

Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mặc dù hàng rào bảo hộ truyền thống như thuế quan, liên minh thuế quan đang dần được dỡ bỏ, song những biện pháp phi thuế quan gây trở ngại cho thông thương ngày càng trở nên đa dạng và được sử dụng nhiều hơn (Trần Thị Vân Anh, 2021).

Để hiểu rõ hơn sự phát triển của dịch vụ xuyên biên giới và vấn đề thu thuế đối với dịch vụ này tại Việt Nam trong bối cảnh TMĐT xuyên biên giới phát triển mạnh mẽ, bài viết phân tích rõ thực trạng và một số đề xuất, giải pháp cho vấn đề này.

Phân loại và cách thức đánh thuế  dịch vụ xuyên biên giới

Phân loại dịch vụ xuyên biên giới

Phạm vi của các dịch vụ được giao dịch qua biên giới, tức là giữa nhà cung cấp tại nước này và khách hàng ở nước khác đã mở rộng đáng kể trong hai thập kỷ qua, do việc áp dụng những tiến bộ trong lĩnh vực điện tử thông tin liên lạc.

Trước khi việc sử dụng internet trở nên phổ biến trong những năm 1990, cước gọi điện thoại quốc tế rẻ hơn và việc sử dụng cáp quang phổ biến hơn thì việc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới hơn nhiều. Để quản lý hoạt động TMĐT giữa các quốc gia, Tổ chức Thương mại thế giới đã ban hành Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS).

GATS đã định nghĩa và phân loại rõ phương thức cung cấp dịch vụ cơ bản trong hoạt động thương mại quốc tế gồm: (i) Cung cấp qua biên giới: Việc cung cấp dịch vụ được tiến hành từ lãnh thổ của nước này sang lãnh thổ của nước khác. Ví dụ: Gọi điện thoại quốc tế, khám bệnh từ xa, trong đó bệnh nhân và bác sỹ khám bệnh ở tại hai nước khác nhau. (ii) Tiêu dùng ngoài lãnh thổ: Người sử dụng dịch vụ mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó.

Ví dụ: Sửa chữa tàu biển, lữ hành, du học, chữa bệnh ở nước ngoài. (iii) Hiện diện thương mại. Người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: Ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài. (iv) Hiện diện thể nhân: Người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó.

Ví dụ: Một giáo sư được mời sang một trường đại học ở nước ngoài để giảng bài. Các dịch vụ xuyên biến giới được phân chia thành 12 nhóm: (1) Các dịch vụ kinh doanh như tư vấn pháp lý, xử lý dữ liệu, nghiên cứu phát triển, nhà đất, cho thuê, quảng cáo;

(2) Các dịch vụ thông tin liên lạc (ví dụ như bưu chính, viễn thông, truyền hình); (3) Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật liên quan đến xây dựng; (4) Các dịch vụ phân phối; (5) Các dịch vụ giáo dục; (6) Các dịch vụ môi trường; (7) Các dịch vụ tài chính như ngân hàng, bảo hiểm;

(8) Các dịch vụ liên quan đến y tế và dịch vụ xã hội; (9) Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành; (10) Các dịch vụ giải trí, văn hóa, và thể thao; (11) Các dịch vụ giao thông vận tải; (12) Các dịch vụ khác (Theo quy định số MTN. GNS/W/120 của WTO).

Cách thức đánh thuế dịch vụ xuyên biên giới

Mặc dù, giá trị dịch vụ xuyên biên giới chiếm tỷ lệ cao trên toàn thế giới, nhưng việc đánh thuế thu nhập từ các dịch vụ này lại chưa được đề cập một cách toàn diện, thống nhất trong một văn bản pháp lý quốc tế. Điều này dẫn tới việc quản lý thuế của các quốc gia gặp nhiều khó khăn, cũng như gia tăng khả năng tránh thuế, trốn thuế của các tổ chức cung cấp dịch vụ xuyên biên giới.

Thực tế cho thấy, quy định việc đánh thuế thu nhập cho các dịch vụ xuyên biên giới được nêu trong nhiều văn bản quốc tế khác nhau. Như phân tích ở trên, GATS đã đưa ra một khung khổ pháp lý mà các quốc gia có thể tham chiếu khi xây dựng các quy định về quản lý thuế hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới thông qua việc phân loại các hình thức dịch vụ.

Mặt khác, trong Hiệp định về phương thức đánh thuế của các nước thành viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế - OECD (MTC) không có điều khoản cụ thể về việc đánh thuế thu nhập từ dịch vụ xuyên biên giới, nhưng trong Hiệp định năm 2008 đã đưa ra định nghĩa về cơ sở thường trú (PE) để các quốc gia tham chiếu khi đưa ra những quy định liên quan tới cung cấp dịch vụ xuyên biên giới (OECD, 2019).

MTC cho phép chính phủ nước chủ nhà đánh thuế thu nhập đối với các tổ chức/cá nhân nước ngoài nếu có cơ sở thường trú (PE) ở nước chủ nhà. Nội dung của MTC chỉ rõ hai hình thức thường trú là có địa điểm kinh doanh cố định hoặc là đại diện thường trú của tổ chức/cá nhân nước ngoài tại nước chủ nhà.

Như vậy, theo MTC, một công ty có thể gửi nhân viên của mình ra nước ngoài trong thời gian ngắn mà không chịu bất kỳ trách nhiệm thuế nào ở quốc gia mà họ tới công tác nếu không thuộc hai nhóm đối tượng trên.

Tuy nhiên, theo Hiệp định về phương thức đánh thuế của Liên Hợp quốc, khái niệm “cung cấp dịch vụ thường xuyên” không yêu cầu phải có địa điểm kinh doanh cố định được hiểu là việc cung cấp dịch vụ thường xuyên từ 183 ngày trong vòng 365 ngày tại nước chủ nhà cho cùng một dự án hoặc một số dự án có liên quan (UN, 2017).

Hiệp định MTC có đề cập một số loại dịch vụ xuyên biên giới cụ thể. Ví dụ: Thu nhập từ các hoạt động của các ngôi sao thể thao và giải trí có thể đánh thuế tại quốc gia là nơi diễn ra các buổi biểu diễn; hay như lợi nhuận của các doanh nghiệp vận tải chỉ bị đánh thuế tại quốc gia mà doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

Thực tế, những dịch vụ này rất đa dạng có thể là tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật, bảo trì thiết bị, đào tạo và giáo dục và trong nhiều trường hợp, giá trị của các dịch vụ được thực hiện trong một quốc gia bởi những người không cư trú có thể rất cao, nhưng theo quy định nêu trong MTC thì nước chủ nhà vẫn không thể đánh thuế những dịch vụ đó trừ khi người không cư trú có cư trú thường xuyên tại quốc gia đó.

Một số quốc gia đã giải quyết vấn đề thuế của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (FSPs) không cư trú bằng cách đưa vào các điều khoản đặc biệt trong các hiệp định tránh đánh thuế hai lần, cung cấp cho họ quyền thu thuế thu nhập phát sinh từ việc cung cấp các dịch vụ của người không cư trú dưới hình thức thuế nhà thầu.

Tuy nhiên, áp thuế nhà thầu có thể hạn chế việc cung cấp các dịch vụ xuyên biên giới do tổng số thuế phải nộp có thể sẽ vượt quá lợi nhuận của nhà cung cấp, đặc biệt tại các nước thuế nhà thầu không cho phép người nộp thuế có thể xin hoàn thuế.

Mặc dù vậy, các nước đang phát triển thường coi thanh toán phí dịch vụ liên quan tới FSPs không cư trú là nguyên nhân làm xói mòn, giảm doanh thu thuế của họ bởi vì họ phải khấu trừ thuế cho các khoản thanh toán này.

Tựu chung, vấn đề thu thuế đối với các dịch vụ xuyên biên giới đòi hỏi sự cộng tác chặt chẽ giữa các quốc gia, để ký kết được những hiệp định tránh đánh trùng thuế, hài hòa hóa thuế suất và sau đó cho phép ưu đãi thuế ở một mức độ nhất định, nhằm giảm bớt sự cạnh tranh trong những hoạt động kinh tế song vẫn đảm bảo được số thu từ thuế cho các quốc gia có liên quan.

Tuy nhiên, tiến trình đàm phán các hiệp định về thuế cho thấy, các chính phủ không thể đạt được mức độ hợp tác cao hơn nếu không có sự bảo trợ của một số tổ chức quốc tế như Liên Hợp quốc hoặc một số tổ chức mới thành lập để giải quyết những vấn đề thuế quốc tế nói chung và thuế đối với các hoạt động dịch vụ xuyên biên giới nói riêng (Trần Thị Vân Anh, 2021).

Thực trạng thu thuế dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam

Trong những năm qua, hoạt động TMĐT tại Việt Nam đã phát triển nhanh chóng và đạt được những kết quả tích cực. Thống kê cho thấy, giai đoạn 2014 - 2020, tốc độ tăng trưởng TMĐT của Việt Nam đạt trung bình trên 30%/năm. Dự kiến, quy mô thị trường này sẽ đạt 33 tỷ USD vào năm 2025, xếp vị trí thứ ba ở Đông Nam Á sau Indonesia và Thái Lan (Hương, 2020).

Ở Việt Nam, hiện có 139 đơn vị sở hữu sàn giao dịch TMĐT (trong đó 41 sàn TMĐT bán hàng, 98 sàn TMĐT cung cấp dịch vụ), 3 công ty đối tác của các nhà cung cấp nước ngoài được thay nhà cung cấp nước ngoài trả tiền cho các tổ chức, cá nhân có quan hệ giao dịch. Số lượng khách hàng trung bình truy cập các sàn TMĐT khoảng 3,5 triệu lượt/ngày.

Đối với TMĐT xuyên biên giới, cơ quan thuế đang quản lý thông qua các tổ chức tại Việt Nam (nộp thuế thay tổ chức nước ngoài) với số thu trung bình hơn 1.100 tỷ đồng/năm. Từ năm 2018 đến hết tháng 4/2022, các sàn giao dịch TMĐT đã khai, nộp thuế với tổng số tiền hơn 5.111 tỷ đồng, trong đó một số đơn vị lớn như Facebook nộp 1.965 tỷ đồng; Google nộp 1.902 tỷ đồng; Microsoft nộp 651 tỷ đồng.

Về quản lý thu thuế đối với các tổ chức, cá nhân Việt Nam có thu nhập từ cung cấp dịch vụ số xuyên biên giới, hoạt động kinh doanh TMĐT, đến hết tháng 4/2022 cơ quan thuế đã thu được từ xử lý vi phạm, chống thất thu khoảng 735 tỷ đồng (Bộ Tài chính, tháng 5/2022).

Trước xu thế bùng nổ của TMĐT ở Việt Nam trong trong những năm gần đây, cơ quan có thẩm quyền đã chủ động thực hiện rà soát, ban hành một số cơ chế, chính sách quản lý hoạt động của lĩnh vực TMĐT như: Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14; Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế; Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT quốc gia giai đoạn 2021-2025; Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam.

Để giải quyết những bất cập trước đây trong quản lý thuế, thu thuế đối với hoạt động TMĐT, cũng như khắc phục những “lỗ hổng” trốn tránh thuế, ngày 29/9/2021, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 80/2021/TT-BTC hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số điều của Luật Quản lý thuế.

Thông tư số 80/2021/ TT-BTC quy định rõ một chương riêng về quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác của nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam.

Theo đó, nhà cung cấp xuyên biên giới có thể trực tiếp hoặc ủy quyền cho tổ chức, đại lý thuế hoạt động theo pháp luật Việt Nam thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế với cơ quan thuế Việt Nam.

Người dùng cá nhân sử dụng dịch vụ của công ty xuyên biên giới thì công ty đó có nghĩa vụ nộp thuế. Số phí người dùng nộp đã bao gồm thuế giá trị gia tăng. Từ trước đến nay, các doanh nghiệp này chưa kê khai do cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, chưa có pháp nhân hiện diện ở Việt Nam.

Nếu doanh nghiệp tại Việt Nam sử dụng dịch vụ của các công ty đó thì có thể kê khai và nộp thuế cho nhà thầu. Đối với người dùng là cá nhân thì chưa thu được, đối tượng đó mới là nguồn thu lớn từ các công ty xuyên biên giới.

Với những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, Luật Thuế giá trị gia tăng trước đây cũng chưa quy định rõ ràng, không xác định doanh nghiệp xuyên biên giới cung cấp dịch vụ tiêu dùng tại Việt Nam là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng, mà cho rằng doanh nghiệp không có hiện diện pháp nhân ở Việt Nam thì không thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng.

Hiện nay, Thông tư số 80/2021/TT-BTC quy định rõ doanh nghiệp dù hiện diện pháp nhân ở đâu thì khi dịch vụ đó được tiêu dùng ở Việt Nam thì vẫn thuộc diện nộp thuế giá trị gia tăng. Nhìn chung, trong những năm qua, Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền các cấp đã có nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện khung khổ pháp lý đối với hoạt động thu thuế các dịch vụ xuyên biên giới.

Tuy nhiên, việc rà soát, cập nhật và điều chỉnh các chính sách thuế cho phù hợp với thông lệ quốc tế, cũng như thực tiễn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng, cần được cơ quan có thẩm quyền tiếp tục quan tâm thực hiện để nghiên cứu sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với thực tiễn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT xuyên biên giới đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với cơ quan thuế thể hiện ở các nội dung sau:

Một là, khó khăn trong việc quản lý đầy đủ các nguồn thu, đối tượng nộp thuế.

Trong điều kiện nền kinh tế số, các tổ chức, cá nhân có thể tiến hành hoạt động kinh doanh xuyên biên giới mà không thuộc đối tượng đánh thuế của bất kỳ quốc gia nào theo nguyên tắc quản lý thuế truyền thống, các quốc gia đều căn cứ trên sự hiện diện vật chất của người nộp thuế, trong khi doanh nghiệp, cá nhân có thể phân bổ thu nhập về địa điểm có lợi nhất về thuế theo quy định của từng nước.

Hai là, không xác định được căn cứ tính thuế.

Trên môi trường số, các hoạt động kinh doanh có thể thực hiện thông qua website hiện diện ở một khu vực thị trường nào đó, mà không cần sự hiện diện vật chất của người nộp thuế. Điển hình cho hoạt động này là quảng cáo trực tuyến và các hoạt động tương tác thông qua nền tảng mạng xã hội.

Ba là, không phân biệt rõ loại thu nhập làm cơ sở đánh thuế.

Trong nền kinh tế số rất khó phân biệt một số loại thu nhập, đặc biệt là bản quyền, phí dịch vụ và lợi nhuận kinh doanh. Ví dụ: Doanh thu liên quan đến phần mềm, sản phẩm nội dung thông tin số, các ứng dụng đăng tải trên mạng rất khó để xác định số tiền chi trả cho bản quyền, phí dịch vụ hay lợi nhuận kinh doanh.

Bốn là, mô hình kinh tế chia sẻ cũng đặt ra nhiều câu hỏi trong việc xác định ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh làm căn cứ tính thuế giá trị gia tăng, nghĩa vụ khai thuế. Ví dụ: Việc xác định mô hình của Grab - là kinh doanh dịch vụ vận tải hay chỉ là cung cấp dịch vụ kết nối.

Năm là, khó kiểm soát giao dịch kinh doanh để quản lý đối tượng thu thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT. Do chủ thể kinh doanh TMĐT không cần đến cửa hàng, cửa hiệu theo cách truyền thống, các giao dịch hoàn toàn thực hiện bằng phương thức điện tử, máy chủ có thể đặt tại nước ngoài, một đối tượng có thể có nhiều gian hàng trên một sàn giao dịch TMĐT và cùng lúc trên nhiều sàn giao dịch TMĐT.

Giải pháp tăng cường quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử xuyên biên giới

 Để khắc phục những khó khăn, thách thức trên, cũng như tăng cường việc quản lý hoạt động kinh doanh TMĐT tại Việt Nam đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật thuế, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách thuế theo hướng phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong tình hình mới và thông lệ quốc tế. Xây dựng cơ sở dữ liệu để quản lý rủi ro tập trung vào các nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở kinh doanh tại Việt Nam và một số chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT.

Thứ hai, tăng cường phối hợp chặt chẽ, bài bản giữa cơ quan thuế và các ngân hàng thương mại; đồng thời có chế tài xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm để giải quyết triệt để tình trạng thất thu thuế trong hoạt động kinh doanh TMĐT.

Thứ ba, rà soát, phân loại, theo dõi và thường xuyên cập nhật thông tin các công ty/doanh nghiệp đã và đang có hoạt động kinh doanh, phát sinh thu nhập từ các hình thức kinh doanh thuộc lĩnh vực TMĐT trong phạm vi địa bàn quản lý theo các nhóm đối tượng cụ thể như: Doanh nghiệp có thu thập từ các tổ chức nước ngoài (như Google, Facebook, Apple, Amazone…); doanh nghiệp kinh doanh, bán hàng trực tuyến; doanh nghiệp kinh doanh hoạt động cho thuê nhà trực tuyến thông qua ứng dụng (như Booking.com, Agoda…); doanh nghiệp chi trả thanh toán cho các dịch vụ điện tử của đơn vị nhà thầu nước ngoài; doanh nghiệp tổ chức, điều hành sàn giao dịch thương mại điện tử (như Sendo, Lazada, Shoppee…), điều hành các ứng dụng trung gian thanh toán (như Vnpay, Airpay, Napas…), ứng dụng trung gian vận chuyển (như Grab, Now, Baemin…).

Thứ tư, đẩy mạnh thực hiện đa dạng hình thức, phương pháp tuyên truyền thông qua các hình thức như: Tổ chức hội nghị, tập huấn chính sách thuế; chuyển thư ngỏ của cơ quan thuế đến các tổ chức, cá nhân để cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh TMĐT có phát sinh thu nhập nắm đầy đủ các nội dung về nghĩa vụ kê khai, nộp thuế đối thu nhập từ hoạt động TMĐT.

Thứ năm, tiếp tục rà soát, đối chiếu thông tin dữ liệu các doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh TMĐT, tham gia sáng tạo nội dung trên các nền tảng trực tuyến, có phát sinh thu nhập từ các tổ chức nước ngoài với thông tin quản lý thuế, để kịp thời xác định các trường hợp có phát sinh nghĩa vụ kê khai, nộp thuế nhưng chưa thực hiện đăng ký thuế, kê khai nộp thuế theo quy định.

Thứ sáu, đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra và rà soát tình hình kê khai nộp thuế nhà thầu nước ngoài và thu thập thông tin về các công ty, tập đoàn nước ngoài đang cung cấp các hình thức quảng cáo xuyên biên giới hiện nay. Xử lý nghiêm các trường hợp cố tình gian lận, trốn thuế không thực hiện kê khai nộp thuế theo quy định, chuyển cơ quan công an để điều tra, xác minh và xử lý theo quy định của pháp luật.

Tài liệu tham khảo:

1. Quốc hội (2019), Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14;

2. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 645/QĐ-TTg ngày 15/5/2020;

3. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014;

4. Hương, U. (2020), Mở ra con đường mới cho thương mại điện tử xuyên biên giới. Retrieved from https://www.vietnamplus.vn/mo-ra-con-duong-moicho-thuong-mai-dien-tu-xuyen-bien-gioi/667246.vnp;

5. Trần Thị Vân Anh (2021), Thuế đối với dịch vụ xuyên biên giới trong bối cảnh thương mại điện tử phát triển, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ số 18 năm 2021;

6. OECD. (2000), The Service Economy. Business and Industry Policy Forum Series;

7. OECD. (2019), Model Tax Convention on Income and on Capital 2017;

8. UN. (2017), Model Double Taxation Convention between Developed and Developing countries 2017. New York;

9. UNCTAD. (2020), Estimates of global E-commerce 2012 and preliminary assessment of Covid-19 impact on online retail 2020. UNCTAD. WTO. (1991). MTN.GNS/W/120 . WTO. Retrieved from https://docs.wto.org/dol2fe/Pages/FE_Search/FE_S_S009logueIdList=179576&CurrentCatalogueIdInd%20 sEnglishRecord=True&HasFrenchRecord=True&HasSpanishRecord=True; 10. WTO. (1995), General Agreement on Trade in Services. WTO.

*Theo TS. Vũ Thị Như Quỳnh, Lê Thành Luân - Trường Đại học Hàng hải Việt Nam.

** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2022.