Thúc đẩy hoạt động tài chính vi mô cho phụ nữ nghèo tại Việt Nam
Tài chính vi mô là công cụ hữu hiệu trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo của mọi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam có hàng trăm tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô, ngày càng khẳng định rõ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công cuộc xóa đói, giảm nghèo nói riêng.
Bài viết đánh giá vai trò tài chính vi mô trong hỗ trợ phụ nữ nghèo và thực trạng phát triển tài chính vi mô đối với phụ nữ nghèo tại Việt Nam, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần phát triển tài chính vi mô hỗ trợ phụ nữ nghèo thời gian tới.
Khái quát về tài chính vi mô
Tài chính vi mô (TCVM) được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau: Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB, 2006) cho rằng: TCVM là việc cung cấp một loạt dịch vụ tài chính như: Nhận tiền gửi, cung ứng khoản vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền và bảo hiểm cho người nghèo và hộ gia đình có thu nhập thấp và các doanh nghiệp nhỏ của họ. Nhóm tư vấn hỗ trợ những người nghèo nhất (CGAP) đưa ra quan điểm về TCVM như sau: TCVM là hoạt động tài chính cung cấp tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm với quy mô nhỏ, dịch vụ chuyển tiền và các dịch vụ phi tài chính khác cho nhóm người có thu nhập thấp theo một cơ chế thích hợp, giúp họ có thể tiến hành sản xuất, phát triển nghề nghiệp tại chỗ, tăng thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống (CGAP, 2013). Như vậy, TCVM là việc cung cấp các dịch vụ tài chính như tín dụng, huy động, huy động, thanh toán, bảo hiểm và các dịch vụ khác cho các đối tượng có thu nhập thấp trong xã hội để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và đầu tư nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống.
Đối với phụ nữ nghèo, TCVM có khả năng cung cấp các loại hình dịch vụ và sản phẩm tài chính cho cộng đồng người nghèo nói chung và phụ nữ nói riêng, nhằm giúp họ cải thiện đời sống, phát triển kinh tế và đóng góp cho xã hội. TCVM còn giúp phát triển nguồn nhân lực tại địa phương, tạo sợi dây liên kết trong cộng đồng. Đặc biệt, chương trình TCVM chủ yếu tập trung vào phụ nữ, do vậy sẽ góp phần tạo sự bình đẳng giới, tạo cơ hội để phụ nữ thể hiện mình. Bằng cách này hay cách khác, phụ nữ đang đóng góp đáng kể vào tài chính gia đình và thực tế này đã giúp họ có quyền nhiều hơn trong các vấn đề của gia đình và xã hội.
Phát triển tài chính vi mô tại Việt Nam và hỗ trợ đối với phụ nữ
Tại Việt Nam, hoạt động TCVM bắt đầu xuất hiện từ cuối những năm 1980 thông qua các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ, các chương trình hỗ trợ phát triển chính thức với mục đích chung là xóa đói giảm nghèo. Đầu những năm 1990, Chính phủ Việt Nam đã ban hành chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, trong đó tín dụng được coi là một trong những công cụ chiến lược.
Đến nay, ở Việt Nam đã có hơn 100 tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô được chia thành 3 nhóm: (i) Các tổ chức chính thức; (ii) Các tổ chức bán chính thức; (iii) Các tổ chức phi chính thức (Bùi Thị Thúy Hằng, 2017). Trong đó, các tổ chức chính thức gồm: Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ Tín dụng nhân dân, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Đến nay, ở Việt Nam đã có hơn 100 tổ chức cung cấp dịch vụ TCVM được chia thành 3 nhóm: (i) Các tổ chức chính thức; (ii) Các tổ chức bán chính thức; (iii) Các tổ chức phi chính thức (Bùi Thị Thúy Hằng, 2017). Trong đó, các tổ chức chính thức gồm: Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ Tín dụng nhân dân, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Các tổ chức bán chính thức bao gồm các tổ chức phi Chính phủ trong nước và quốc tế, các chương trình của các tổ chức xã hội như: Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu Chiến binh Việt Nam...
Ngày 06/12/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2195/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án Xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020” với các giải pháp trọng tâm về xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với đặc thù của hoạt động TCVM, nâng cao năng lực hoạch định chính sách và quản lý của cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao năng lực của các tổ chức TCVM, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về TCVM; Ngày 23/2/2018, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 03/2018/TTNHNN quy định về cấp giấy phép, tổ chức và hoạt động của tổ chức TCVM thay thế Thông tư số 02/2008/TT-NHNN. Các tổ chức TCVM cũng đạt được kết quả ngày càng lớn trong hoạt động của mình. Năm 2017, Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện cho vay được khoảng 2.120 nghìn lượt hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác, với doanh số cho vay đạt 55.956 tỷ đồng, tăng 806 tỷ đồng so với năm 2016 (Thụy Lê, 2018).
Với vai trò là một công cụ đắc lực, TCVM đã giúp Chính phủ đạt được thành tích đáng kể trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Theo đó, tỷ lệ đói nghèo tại Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống chỉ còn khoảng 6,72% vào cuối năm 2017. Hoạt động TCVM được đánh giá là có ý nghĩa xã hội sâu sắc và ngày càng lớn mạnh, giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận và làm quen với các sản phẩm tài chính. Trong khi đó, tỷ lệ nợ xấu ở khu vực TCVM là khá thấp (dưới 1%), còn các khoản vay giá trị thấp cũng giúp các tổ chức cung cấp TCVM phân tán rủi ro hiệu quả hơn (Thụy Lê, 2018).
Trong những năm qua, hoạt động TCVM tại Việt Nam được biết đến là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống tài chính và là một trong những công cụ xóa đói, giảm nghèo hữu hiệu. Khách hàng chủ yếu của TCVM là nhóm dân số có thu nhập thấp, nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội, đặc biệt là phụ nữ. Thực tiễn cho thấy, với điều kiện vay vốn đơn giản, không cần tài sản thế chấp, cấp và nhận vốn ngay tại nơi người dân sinh sống, TCVM được xem như một "đòn bẩy" hữu hiệu nhằm tăng cường sự tự tin của phụ nữ, thúc đẩy họ tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, thoát nghèo, từ đó khẳng định vai trò và vị thế trong gia đình và xã hội.
Mặc dù, cả phụ nữ và nam giới phải đối mặt với các khó khăn trong cuộc sống, tuy nhiên, phụ nữ có ít cơ hội tiếp cận các cơ hội kinh tế hơn do các rào cản về pháp lý, thái độ văn hóa – xã hội tiêu cực và hạn chế về thời gian. Các dịch vụ tài chính cho phép phụ nữ tối đa hóa lợi ích của thu nhập tiền mặt bằng cách biến thu nhập tiền mặt thành một nguồn thu nhập lớn có ý nghĩa dưới dạng tài sản có thể được đầu tư, cho vay lại hoặc sử dụng như một khoản bảo hiểm. Các chương trình TCVM đặc biệt hữu ích trong việc gia tăng lựa chọn kinh tế của phụ nữ do phụ nữ thường có ít cơ hội tiếp cận với các nguồn tín dụng phi chính thức hơn nam giới.
Thực tế đã chứng minh, việc tham gia vào các chương trình tiết kiệm và tín dụng giúp trao quyền cho phụ nữ bằng cách tăng phần đóng góp của phụ nữ vào thu nhập của hộ gia đình và giúp họ vươn ra thế giới bên ngoài. Tăng thu nhập cũng đồng nghĩa với việc trao cho phụ nữ nhiều quyền hơn trong gia đình, tăng nhận thức chính trị, xã hội, từ đó giúp họ có địa vị tốt hơn trong xã hội. Do đó, một trong những kết quả của việc tham gia của phụ nữ vào các chương trình TCVM là gia tăng lòng tự trọng và ý thức về giá trị của bản thân.
Mặc dù, đã có những bước tiến nhất định, nhưng thực tiễn hoạt động TCVM tại Việt Nam vẫn còn một số hạn chế như: Hoạt động TCVM còn khá manh mún, sản phẩm, dịch vụ chưa đa dạng, các chỉ số bền vững hoạt động và tài chính của các tổ chức TCVM chưa cao, đặc biệt khuôn khổ pháp lý chưa toàn diện, thiếu thống nhất... Hơn nữa, công tác tư vấn, hỗ trợ, giáo dục về quản lý tài chính cho khách hàng TCVM nói chung và cho phụ nữ trong hộ gia đình nói riêng còn khiêm tốn. Những hạn chế này tác động không tốt tới cơ hội phát triển kinh tế lâu dài của hộ gia đình, trong đó có người phụ nữ.
Bên cạnh đó, các chương trình đào tạo về giáo dục TCVM cho phụ nữ nông thôn còn nhiều hạn chế, bất cập. Đa phần những chương trình giáo dục TCVM hiện nay mới cung cấp những kiến thức cơ bản chưa có những đào tạo chuyên sâu về kiến thức, kỹ năng lập kế hoạch kinh doanh kế hoạch vay vốn, kỹ năng sử dụng vốn vay có hiệu quả. Một số chương trình đào tạo được thiết kế chưa thực sự phù hợp với đối tượng, đặc biệt là đối tượng phụ nữ nông thôn dẫn đến họ khó tiếp thu và ứng dụng trong thực tế.
Giải pháp nâng cao hiệu quả của tài chính vi mô
Để phát huy vai trò của TCVM giúp phụ nữ nghèo nâng cao đời sống, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, sớm ban hành đầy đủ hành lang pháp lý tạo điều kiện cho hoạt động TCVM phát triển bền vững. Có cơ chế chính sách khơi thông nguồn vốn cho TCVM là một kênh cung cấp vốn cho phụ nữ nghèo sản xuất, kinh doanh, có cơ hội thoát nghèo. Tuy nhiên, để các hộ nghèo thoát nghèo, nguồn vốn tài chính chỉ là một yếu tố, mà quan trọng hơn giúp họ có những kiến thức về sản xuất kinh doanh, quản lý tài chính, sử dụng nguồn vốn hiệu quả… Trong bối cảnh bùng nổ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, yêu cầu đặt ra là cần có những hỗ trợ thiết thực với các tổ chức TCVM trong việc ứng dụng công nghệ số. Liên kết các ngân hàng thương mại trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ, dựa trên nền tảng công nghệ số. Qua đó, một mặt đa dạng hóa các kênh phân phối, phát triển sản phẩm, dịch vụ sáng tạo hơn; mặt khác đưa sản phẩm đến với khách hàng là phụ nữ tại các khu vực, vùng sâu vùng xa tốt hơn.
Thứ hai, xây dựng cơ sở vật chất, mở rộng thanh toán điện tử tạo điều kiện để phụ nữ dễ dàng tiếp cận tài chính. Theo đó, cần cải thiện cơ sở hạ tầng hệ thống thanh toán để bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế quốc gia; sử dụng hiệu quả hơn công nghệ, đổi mới và tăng trưởng mạng lưới tiếp cận bán lẻ để truyền thông tới các nhóm dân số còn chưa được phục vụ hợp lý và để cải thiện việc sử dụng và giảm chi phí của các dịch vụ thanh toán (kể cả chuyển tiền). Đồng thời, tạo ra những đổi mới mở rộng như thị trường số hóa và hình thành quan hệ đối tác hiệu quả.
Thứ ba, các tổ chức TCVM cần đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ. Đối với dịch vụ cho vay, cần phát triển các sản phẩm phù hợp cho vay nhỏ lẻ như cho vay trả góp, lưu vụ với mức lãi suất có tích lũy. Đối với các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm, chuyển tiền… cần phát triển theo nhu cầu và năng lực của tổ chức TCVM. Trong tương lai, cần đẩy mạnh phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động.
Thứ tư, các tổ chức TCVM phải chủ động hơn nữa trong việc tuyển dụng phụ nữ. Cán bộ tín dụng là nữ giới có thể cần thiết để phục vụ các khách hàng nữ tại những nơi mà chuẩn mực văn hóa không cho phép giao tiếp giữa nam và nữ. Bên cạnh dịch vụ tài chính, các tổ chức TCVM có thể xem xét đến việc cung cấp các dịch vụ phi tài chính dưới hình thức đối tác với các tổ chức phi chính phủ chuyên biệt, chẳng hạn như dịch vụ trung gian tài chính, dịch vụ phát triển doanh nghiệp và đào tạo.
Tóm lại, đối với Việt Nam, vấn đề then chốt để tạo sự thành công của các chương trình TCVM đặt trọng tâm vào phụ nữ là phải xem xét họ trong bối cảnh rộng lớn hơn (hạt nhân của gia đình, có vai trò quan trọng đối với sự tiến bộ xã hội). Các chương trình TCVM cần hướng tới cung cấp cho phụ nữ các sản phẩm phù hợp với nhu cầu cụ thể thông qua các phương pháp phù hợp. Trong ngắn hạn, cần tập trung hỗ trợ nâng cao năng suất lao động của phụ nữ bằng cách cung cấp tín dụng, công nghệ và đào tạo kỹ năng.
Về dài hạn, cần chú trọng xóa bỏ các rào cản về thể chế làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận của phụ nữ đối với các nguồn lực sản xuất, tạo lập các cơ chế xã hội, công nghệ và kinh tế để giảm xung đột giữa vai trò sản xuất và tái sản xuất của phụ nữ cũng như xác định các chiến lược để giải quyết các vấn đề về rào cản pháp lý và truyền thống gây cản trở việc tham gia chủ động của phụ nữ vào các ngành sản xuất của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 2195/QĐ-TTG: Phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển hệ thống TCVM tại Việt Nam đến năm 2020;
2. Ngân hàng Phát triển châu Á (2006), Báo cáo lần thứ nhất: Thực hiện khuôn khổ quy định và giám sát về TCVM, TA 4638-VIE;
3. Bùi Thị Thúy Hằng (2017), Vai trò của hệ thống TCVM với công tác giảm nghèo bền vững hiện nay, Tạp chí Công Thương online, truy cập http://tapchicongthuong.vn/vai-tro-cua-he-thong-tai-chinh-vi-movoi-cong-tac-giam-ngheo-ben-vung-hien-nay-2017071708466786p0c488.htm;
4. Thụy Lê (2018), Sáng, tối bức tranh TCVM, Thời báo Kinh tế Sài Gòn online, truy cập lần cuối ngày 3/2 từ http://www.thesaigontimes.vn/270374/Sang-toi-buc-tranh-tai-chinh-vi-mo.html;
5. CGAP (2004), Key principles of Microfinance, Washington D.C.