Thực tiễn Áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

TS. Nguyễn Thị Lan Anh - Trường Đại học Tây Bắc

Ngày 20/3/2014, Ngân hàng Nhà nước có Công văn số 1601/2014/NHNN-TTGSNH về chương trình thí điểm Basel II đối với 10 ngân hàng thương mại của Việt Nam. Để áp dụng Basel II, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra một lộ trình đối với hệ thống ngân hàng thương mại. Tiếp đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước và Thông tư số 13/2018/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để triển khai 3 trụ cột theo phương pháp tiêu chuẩn Basel II. Bài viết này nghiên cứu quá trình triển khai áp dụng tiêu chuẩn Basel II của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ năm 2014 đến nay, từ đó, đề xuất một số giải pháp, nhằm áp dụng tiêu chuẩn Basel II thành công và hướng tới áp dụng Basel III.

Tổng quan về Basel II

Basel II là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS). Hiệp ước về vốn Basel II được trình bày như một tập hợp các quy định được đề xuất mà có thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ cho các ngân hàng trên thế giới.

Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là hàng loạt tác động kinh doanh và các thách thức về quản lý rủi ro Basel II có thể mang đến cho các ngân hàng, đối thủ cạnh tranh phi ngân hàng, khách hàng, cơ quan đánh giá và cuối cùng là các thị trường vốn toàn cầu của họ.

Sự phức tạp của hiệp ước mới, cũng như phụ thuộc lẫn nhau của nó với Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế và các quy định của từng quốc gia trên toàn thế giới đã làm cho việc triển khai Basel II là một dự án có độ phức tạp cao.

Năm 1988, BCBS đã giới thiệu một khung rủi ro tín dụng (Basel I) xác định các tiêu chuẩn về vốn để hạn chế rủi ro kinh doanh của các ngân hàng và tăng cường hệ thống tài chính. Để đáp ứng các yêu cầu của phát triển liên tục trong ngành ngân hàng, các quy định này đã được sửa đổi và vào tháng 6/2004, một hiệp ước về vốn mới (Basel II) được ban hành. Để có thể triển khai Basel II hiệu quả, tất cả các ngân hàng sẽ cần phải xác định lại chiến lược kinh doanh của họ cũng như các rủi ro tiềm ẩn. Trên thực tế, việc tính toán nhu cầu vốn theo hiệp ước mới đã yêu cầu ngân hàng thực hiện khung rủi ro toàn diện trên toàn bộ tổ chức.

Basel II được thiết kế như một khung tiến hóa, vì vậy theo thời gian các cập nhật sẽ được thực hiện để bắt kịp với sự phát triển liên tục trong ngành Tài chính. Trước khi thực hiện các quy định mới, Basel II có thể trải qua một sự điều chỉnh định lượng trên cơ sở các kết quả của nghiên cứu tác động gần đây nhất.

Các yêu cầu về quản lý rủi ro của Basel II có thể mang tới những thay đổi đáng kể trong kinh doanh căn bản của một ngân hàng riêng lẻ cũng như trong cơ cấu tổ chức của nó. Với Basel II, đầu ra của việc quản lý tốt hơn rủi ro tín dụng và rủi ro vận hành sẽ là đầu vào của mô hình vốn kinh tế mà sử dụng nó các ngân hàng có thể phân bổ vốn cho các chức năng và giao dịch khác nhau và phụ thuộc vào rủi ro.

Basel II sử dụng khái niệm “Ba trụ cột” gồm:

Trụ cột thứ 1: Liên quan đến việc duy trì vốn bắt buộc. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I, tuy nhiên yếu tố rủi ro được tính trên 3 yếu tố chính đó là rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay còn gọi là rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. Basel II yêu cầu các ngân hàng duy trì CAR tối thiểu là 4% đối với vốn cấp 1 bao gồm cổ phần phổ thông và dự trữ được công bố và 8% đối với vốn cấp 2 bao gồm dự trữ không được công bố. Theo chuẩn mực của Basel, thì ngân hàng có mức vốn tốt nhất khi CAR > 10%, có mức vốn thích hợp khi CAR > 8% và có mức thiếu vốn rõ rệt khi CAR > 6%, thiếu vốn trầm trọng khi CAR > 2%.

Trụ cột thứ 2: Liên quan đến việc hoạch định chính sách ngân hàng. Basel II cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách những công cụ tốt hơn so với Basel I và đồng thời cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt, như: rủi ro hệ thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro pháp lý và rủi ro thanh khoản.

Trụ cột thứ 3: Liên quan đến các yêu cầu với các ngân hàng phải thực hiện công khai, minh bạch thông tin theo nguyên tắc thị trường đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng phải công khai về cơ cấu vốn tự có, mức độ rủi ro hoạt động, chính sách quản lý rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro…

Quá trình áp dụng Basel II của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Lộ trình áp dụng và chính sách được ban hành

Ngày 20/3/2014, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chính thức có Công văn số 1601/2014/NHNN-TTGSNH về chương trình thí điểm Basel II đối với 10 ngân hàng thương mại (NHTM) của Việt Nam. Tiếp đó, để áp dụng Basel II, NHNN đã đưa ra một lộ trình đối với hệ thống NHTM. Theo đó, NHNN đã ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước và Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để triển khai 3 trụ cột theo phương pháp tiêu chuẩn Basel II. Cụ thể: NHNN thành lập Ban Chỉ đạo triển khai Basel II trong ngân hàng và lựa chọn 10 NHTM trong nước thí điểm triển khai. NHNN xây dựng mẫu biểu, ban hành khung khổ pháp lý cần thiết hướng dẫn các ngân hàng triển khai đầy đủ các trụ cột Basel II. 

Đối với trụ cột I, NHNN đã xây dựng và ban hành Thông tư số 41/2016/TT-NHNN và các văn bản sửa đổi, bổ sung quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với các ngân hàng theo phương pháp tiêu chuẩn.

Đối với trụ cột II, NHNN đã xây dựng, ban hành Thông tư 13/2018/TT-NHNN và các văn bản sửa đổi, bổ sung quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ. Thông tư này yêu cầu ngân hàng cải thiện hoạt động quản lý rủi ro, phù hợp với yêu cầu của Basel II và các thông lệ tiên tiến về quản lý rủi ro. Khó khăn mà các ngân hàng trong quá trình triển khai là chi phí và thiếu dữ liệu lịch sử.

Còn đối với trụ cột III, NHNN tăng cường yêu cầu các ngân hàng thực hiện báo cáo, công bố thông tin đối với kết quả tính vốn, thực trạng kiểm soát, quản lý rủi ro, việc xác định khẩu vị rủi ro, kết quả đánh giá nội bộ về mức độ đủ vốn, kế hoạch sử dụng vốn... Đây là cơ sở để cơ quan quản lý giám sát khẩu vị rủi ro, đánh giá mức độ an toàn hoạt động.

Trên cơ sở đó, NHNN đã triển khai 2 giai đoạn sau:

Giai đoạn 1: Thí điểm áp dụng Basel II tại 10 ngân hàng là: Vietcombank, VietinBank, BIDV, MB, Sacombank, Techcombank, ACB, VPBank, VIB và Maritime Bank. Chương trình thí điểm bắt đầu từ tháng 2/2016, mục tiêu đến cuối năm 2018 các ngân hàng này phải cơ bản đáp ứng các yêu cầu của Basel II.

Giai đoạn 2: Đến năm 2020, cơ bản các NHTM có mức vốn tự có theo chuẩn mực của Basel II, trong đó có ít nhất 12-15 NHTM áp dụng thành công Basel II (theo Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020 ngày 8/11/2016).

Quá trình thực hiện áp dụng Basel II của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Nhìn lại quá trình đi đến Basel II, dù Thông tư số 41/2016/TT-NHNN được ban hành năm 2016 nhưng các ngân hàng Việt mới bắt đầu đáp ứng được từ đầu năm 2019. Những ngân hàng đầu tiên “tốt nghiệp” Basel II tại Việt Nam là Vietcombank và VIB, được NHNN tổ chức lễ công nhận vào tháng 11/2018 và chính thức áp dụng từ 01/01/2019. Ngay sau VIB và Vietcombank, nhiều ngân hàng khác cũng áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN như: OCB (tháng 12/2018), ACB, TPBank, MB, VPBank (tháng 4/2019)… và đến nay đã có hơn 20 ngân hàng đáp ứng được quy định này.

Tuy nhiên, Thông tư số 41/2016/TT-NHNN mới chỉ quy định về CAR và yêu cầu về minh bạch thông tin và kỷ luật thị trường – Trụ cột 1 và 3 của Basel II và hành trình hoàn thiện Trụ cột 2 vẫn tiếp tục (Trụ cột 2 đánh giá nội bộ về mức đủ vốn). Tháng 11/2019, VIB là ngân hàng đầu tiên công bố hoàn tất 3 trụ cột này. Tiếp đến là các ngân hàng như: Vietcombank, VPBank, TPBank và MSB…

Ý thức được tầm quan trọng của quản trị rủi ro, dù Basel II là yêu cầu cao nhất của cơ quan quản lý tại Việt Nam hiện nay, nhưng nhiều ngân hàng đã bắt tay vào việc triển khai Basel III với nhiều tiêu chí khắt khe hơn. Basel III nhằm bổ sung, khắc phục những hạn chế của Basel II, chủ yếu là về quản trị thanh khoản, giúp ngân hàng chống chịu trước các rủi ro và ngăn ngừa tổn thất hệ thống. Các ngân hàng từng tiên phong trong Basel II cũng tiếp tục dẫn đầu triển khai Basel III.

Chẳng hạn như VIB đã triển khai áp dụng các chỉ số quản trị rủi ro theo chuẩn mực Basel III từ năm 2020. VIB cùng với Vietcombank là những ngân hàng tiên phong trong việc triển khai bộ tiêu chuẩn củng cố chất lượng về vốn và đặc biệt là năng lực thanh khoản. Ngoài ra, nhiều ngân hàng khác như: TPBank, MSB, SeABank, MSB… đã tích cực áp dụng Basel III thời gian qua và một số đã công bố hoàn thành được hết các yêu cầu.

Tháng 9/2022, Tổ chức xếp hạng Moody’s Investors Service (Moody’s) đã nâng xếp hạng của 12 ngân hàng Việt Nam, trong đó đều là những cái tên tiên phong trong quản trị rủi ro tại thị trường Việt Nam. Điều này khẳng định, uy tín của nhiều ngân hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao thông qua việc thực hiện tốt Basel II.

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình áp dụng Basel II của các ngân hàng Việt Nam vẫn còn một số khó khăn, hạn chế như:

Một là, chưa xây dựng được hệ thống cơ sở dữ liệu. Để áp dụng thành công Basel II, đòi hỏi các ngân hàng phải có hệ thống dữ liệu chính xác, đáng tin cậy và kịp thời. Nếu rủi ro không được tính toán chính xác có thể giảm tác dụng tích cực của Basel II. Việc kiểm tra chất lượng của dữ liệu và đối chiếu dữ liệu là một thách thức trong quá trình triển khai Basel II nhằm đảm bảo tính đầy đủ và chính xác của dữ liệu. Các ngân hàng phải đảm bảo dữ liệu đầy đủ, khớp với số liệu đã được kiểm toán và đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng dữ liệu của Basel II.

Hai là, vốn đang là vướng mắc lớn để các ngân hàng đạt được yêu cầu, đáp ứng chuẩn Basel II, đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán gần đây diễn biến không thuận lợi, trong khi các ngân hàng vẫn đang tập trung xử lý nợ xấu của nhiều năm trước. Điều này còn trở nên khó khăn hơn khi trong các năm vừa qua (2020-2022), ngân hàng phải dành nguồn lực để cơ cấu lại nợ, giảm lãi, giảm phí hỗ trợ khách hàng và nền kinh tế vượt qua đại dịch COVID-19.

Trong số các ngân hàng chưa được công nhận đạt chuẩn Basel II phải kể đến 2 ngân hàng lớn là VietinBank và Agribank. Hiện VietinBank có vốn nhà nước chi phối duy nhất hiện nay chưa đạt chuẩn Basel II. VietinBank sẽ đảm bảo hệ số CAR theo chuẩn Basel II sau khi tăng vốn từ chia cổ tức bằng cổ phiếu. Tuy nhiên, áp lực tăng vốn của ngân hàng vẫn rất lớn. Nghị định số 121/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 91/2015/NĐ- ngày 9/10/2020 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp đã đưa nhóm ngân hàng do Nhà nước nắm giữ hơn 50% vốn điều lệ vào danh sách lĩnh vực được bổ sung vốn Nhà nước để gỡ “nút thắt” tăng vốn cho các ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cũng như các mục tiêu lớn của Ngành trong giai đoạn tới.

Trường hợp thứ hai là Agribank, do là ngân hàng 100% sở hữu Nhà nước nên vốn điều lệ chỉ có thể được bổ sung từ ngân sách, tuy nhiên, 9 năm qua Agribank chưa được tăng vốn điều lệ. Do chưa đáp ứng chuẩn mực Basel II nên Agribank đang được thực hiện tỷ lệ an toàn vốn theo quy định cũ. Theo đó, vốn điều lệ của Agribank hiện đạt 30.591 tỷ đồng, tỷ lệ an toàn vốn vào cuối 2019 là 9,2%, cận kề ngưỡng tối thiểu theo quy định là 9%.

Nhìn chung, những tiêu chí của Thông tư số 41/2016/TT-NHNN chỉ là bước đầu tiên trong 3 trụ cột của Basel II. Sau khi đáp ứng tỷ lệ CAR, các ngân hàng sẽ cần phải hoàn thiện 2 trụ cột còn lại liên quan đến quy trình đánh giá mức độ đầy đủ vốn nội bộ (ICAAP), khả năng giám sát và công khai thông tin theo nguyên tắc thị trường.

Ba là, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là vấn đề chung đối với tất cả các NHTM và cơ quan giám sát NHTM như NHNN.

Bốn là, hạn chế về hoạt động giám sát. Việt Nam hiện thực hiện giám sát tài chính theo mô hình phân tán, nặng về giám sát tuân thủ hơn giám sát rủi ro. Trong khi đó, nói đến hệ thống tài chính là nói đến những rủi ro có tính hệ thống, là những rủi ro trong từng lĩnh vực và rủi ro chéo từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác.

Năm là, các vấn đề liên quan đến chuẩn mực báo cáo. Hiện nay, các NHTM Việt Nam đang thực hiện báo cáo theo các chuẩn mực kế toán của Việt Nam (VAS) và các chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRS). Khi thực hiện báo cáo theo hai chuẩn mực này hoặc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong nước và ngoài nước đánh giá thì kết quả khá khác biệt. Kết quả nghiên cứu cho thấy, mức độ hòa hợp giữa VAS với IAS/IFRS liên quan đến 10 chuẩn mực được chọn nghiên cứu ở mức bình quân là 68%.

Một số đề xuất

Triển khai ứng dụng Basel II đòi hỏi kỹ thuật phức tạp và đầu tư lớn về tài chính, vì vậy đối với các ngân hàng đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức và đầu tư về thời gian triển khai. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và mở cửa ngành Tài chính - ngân hàng với rất nhiều các loại hình dịch vụ mới, thì việc từng bước áp dụng các chuẩn mực quốc tế cụ thể như Basel II là yêu cầu cấp thiết, nhằm tăng cường năng lực quản trị và hiệu quả hoạt động, giảm thiểu rủi ro cho các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

Về phía Ngân hàng Nhà nước

- Tiếp tục triển khai thực hiện tái cấu trúc tổ chức của các cơ quan giám sát để có thể thực hiện giám sát hợp nhất; gia tăng tính độc lập và hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng; xây dựng cơ chế trao đổi, chia sẻ thông tin và tăng cường phối hợp, hành động giữa các cơ quan thanh tra giám sát với các cơ quan chức năng có liên quan trên thị trường tài chính Việt Nam; thay đổi phương pháp thanh tra, giám sát trong đó chú trọng vào giám sát từ xa và giám sát phòng ngừa; nâng cao vai trò, năng lực tài chính và hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam.

-  Tiếp tục xây dựng khung pháp lý toàn diện và thống nhất về Hệ thống Quản lý rủi ro trong NHTM Việt Nam. Tiếp tục hoàn thiện quy định các loại rủi ro cần được nhận diện. Theo Thông tư số 13/2018/TT-NHNN, các NHTM cần nhận diện đầy đủ các rủi ro trọng yếu là rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất trên sổ ngân hàng, rủi ro hoạt động, rủi ro tập trung, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng và rủi ro khác.

Về phía các ngân hàng thương mại

Thứ nhất, xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, ngoài việc xếp hạng tín dụng, xác định giới hạn tín dụng đối với khách hàng, ngân hàng cần phải thường xuyên xem xét khoản vay, đánh giá những thay đổi hạng mức tín dụng của khách hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần xác định hạn mức cho từng ngành nghề hoặc khu vực kinh tế cụ thể, cho từng vùng miền và sản phẩm cụ thể nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng.

Thứ hai, đầu tư chi phí triển khai Basel II. Theo kết quả đánh giá hiệu quả - chi phí áp dụng Hiệp ước Basel tại các nước đang phát triển có sự khác biệt. Theo đó, các yêu cầu về mặt hoạt động, nhất là đối với phương pháp đánh giá nội bộ có yêu cầu cao và mức chi phí lớn. Vì vậy, các ngân hàng phải tính toán đầy đủ, cụ thể để đánh giá khả năng đáp ứng được chi phí. Các NHTM cũng cần cân nhắc nên đầu tư chi phí cho việc từng bước ứng dụng Basel II, trước mắt có thể là đầu tư chi phí để xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, sau đó từng bước ứng dụng các phương pháp phức tạp hơn của Basel II.

Thứ ba, khắc phục khó khăn trong vấn đề xử lý dữ liệu. Các NHTM cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu đảm bảo chuẩn hóa các thông tin được công bố, từ đó đẩy nhanh quá trình đáp ứng các tiêu chuẩn của Basel II, giảm thiểu các rủi ro liên quan đến thông tin không minh bạch dẫn đến sai sót trong quá trình phân tích và đánh giá. Thêm vào đó, các NHTM cũng cần rà soát, chuẩn hóa lại dữ liệu, đặc biệt là các thông tin về khách hàng, tài sản đảm bảo cần phải được lưu trữ trong thời gian từ 3-5 năm và các dữ liệu nợ xấu phải được lưu trữ từ 5-7 năm.

Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua các giải pháp, xây dựng kế hoạch nguồn lực phù hợp phục vụ triển khai Basel II; đào tạo kịp thời nguồn nhân lực sẵn có để đáp ứng nhu cầu trước mắt; các ngân hàng cần có chiến lược phát triển nguồn nhân lực lâu dài, có kế hoạch đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Tài liệu tham khảo:

  1. Ngân hàng Nhà nước (2016), Thông tư số 41/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài;
  2. Ngân hàng Nhà nước (2018), Thông tư số 13/2018/TT-NHNN ngày 18/05/2018 quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM;
  3. Hà Lâm (2022), Ngân hàng nào đi đầu về áp dụng Basel?, https://kinhtedothi.vn/ngan-hang-nao-di-dau-ve-ap-dung-basel.html;
  4. Nguyễn Dung (2022), Áp dụng Basel II tại các NHTM Việt Nam, https://tapchitaichinh.vn/ap-dung-basel-ii-tai-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam.html.
 
Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 7/2023