Thực trạng tự chủ tài chính đại học công lập và một số đề xuất, kiến nghị

Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 9/2019

Đổi mới cơ chế tài chính theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học công lập là xu thế khách quan. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu, tuy nhiên vẫn cần tiếp tục nghiên cứu thực tiễn, đổi mới để phát huy cơ chế này trong thời gian tới. Bài viết phân tích thực trạng cơ chế tự chủ tài chính tại các trường đại học công lập để làm rõ cơ hội, thách thức và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao cơ chế tự chủ tài chính cho các trường đại học công lập ở Việt Nam…

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học tại Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới
Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học tại Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới

Những kết quả ban đầu

Thời gian qua, cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học (GDĐH) tại Việt Nam đã có nhiều đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển. Điều này thể hiện tại Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội khóa XII về chủ trương, định hướng đổi mới một số cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) từ năm 2010-2011 đến năm học 2014-2015; Nghị định số 49/2009/NĐ-CP quy định về miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập và cơ chế thu, sử dụng học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014–2015. Đặc biêt, Nghị định số 16/2015/NĐ-CP quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) đã thể hiện rõ mục tiêu đổi mới toàn diện các ĐVSNCL nói chung và các trường đại học công lập (ĐHCL) nói riêng; đẩy mạnh việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị đồng bộ cả về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính.

Theo kết quả báo cáo của Bộ GD&ĐT, cơ chế tự chủ tài chính áp dụng đối với các trường ĐHCL đạt được một số kết quả và còn tồn tại một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, các ĐHCL được chủ động xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng phù hợp với đặc thù của đơn vị, góp phần tiến tới quản lý hoạt động của đơn vị theo đầu ra, giảm dần việc quản lý theo các yếu tố đầu vào theo cơ chế quản lý tài chính công của Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, thúc đẩy các ĐHCL mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các hoạt động GD&ĐT để đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao và đa dạng của xã hội. Nhiều hình thức đào tạo đa dạng đã được mở ra như đào tạo chính quy và đào tạo thường xuyên; đào tạo tập trung và đào tạo từ xa; vừa học vừa làm, bồi dưỡng; tổ chức liên kết đào tạo với các cơ sở khác trong và ngoài nước; mời chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam để giảng dạy…

Thứ ba, bảo đảm công tác quản lý tài chính ở các ĐHCL được thực hiện thống nhất dân chủ, công khai, minh bạch; thúc đẩy các đơn vị tự chủ tạo lập và sử dụng các nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước (NSNN) cùng với kinh phí NSNN cấp có hiệu quả để phát triển hoạt động sự nghiệp, đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của xã hội. Các ĐHCL đã tự đảm bảo một phần quan trọng nguồn tài chính thực hiện chế độ tiền lương mới do Nhà nước quy định. Các trường cũng đã hoàn thiện công tác hạch toán và kết quả tài chính, khai thác nguồn thu, đổi mới phương thức quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy.

Một số tồn tại, hạn chế

Cơ chế quản lý tài chính đối với giáo dục đại học (GDĐH) tại Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều đổi mới cho phù hợp với yêu cầu phát triển, tuy nhiên, so với yêu cầu thực tiễn vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.

Thứ nhất, khả năng tự chủ tài chính của ĐHCL về kinh phí chi thường xuyên thấp: Theo đúng phương thức và định mức phân bổ hiện hành cộng với khung học phí bị bó hẹp và thấp như hiện nay, các ĐHCL khó có khả năng tự chủ các khoản chi thường xuyên, đặc biệt là chi lương và các khoản có tính chất lương. Các khoản chi cho đầu tư xây dựng cơ bản phụ thuộc chủ yếu vào nguồn NSNN (Khả năng tự chủ của các trường về kinh phí cho xây dựng cơ bản là yếu thậm chí không có khả năng), nhưng nguồn này được phân bổ rải rác hàng năm, có những dự án bị giải ngân quá lâu do đầu tư dàn trải, dẫn đến lãng phí và không hiệu quả.

Thứ hai, quyền tự chủ của các ĐHCL về chuyên môn còn hạn chế. Mặc dù Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương chính sách để các trường ĐHCL triển khai thực hiện tự chủ nhưng đến nay, những nội dung thực tế đảm bảo cho các ĐHCL thực hiện quyền tự chủ chưa được quán triệt (xác định các ngành, chuyên ngành đào tạo; xác định các chương trình đào tạo; xác định hình thức tổ chức đào tạo; xác định phương pháp giảng dạy; xác định phương pháp đánh giá các học phần; xác định thời gian đào tạo... là những tiêu thức được coi là quyền tự chủ cao trong tất cả các hệ và hình thức đào tạo).

Thứ ba, các ĐHCL còn lúng túng trong xây dựng và triển khai quy chế chi tiêu nội bộ; không có khả năng cân đối thu chi, các đơn vị thường lập dự toán thu sự nghiệp thấp hơn nhiều so với thực hiện. Một số trường xây dựng quy chế thi tiêu nội bộ rất chi tiết nhưng có một số nội dung chi và mức chi không phù hợp.

Cơ hội và thách thức đặt ra

Hội nhập là cơ hội để GDĐH Việt Nam tranh thủ hợp tác liên doanh với nước ngoài để mở rộng đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài; tạo điều kiện để ĐHCL trở thành những trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ hiện đại; thông qua đào tạo và nghiên cứu để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài khoa học. Cùng với đó, chất lượng GDĐH được nâng lên, tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, GDĐH Việt Nam vẫn còn gặp một số thách thức cụ thể như:

Một là, năng lực cạnh tranh hạn chế, nguy cơ tụt hậu xa hơn về GDĐH: Xuất phát điểm của giáo dục Việt Nam còn thấp, môi trường giáo dục vĩ mô còn nhiều yếu kém; Quá trình xây dựng các đại học chất lượng cao gặp khó khăn trong chuyển giao chương trình đào tạo, trình độ đội ngũ giảng viên; Hệ thống các chuyên ngành đào tạo trong các đại học Việt Nam chưa hoàn thiện; Nguồn lực đầu tư cho GDĐH ở Việt Nam còn thấp, sự phân bổ nguồn lực đầu tư không đồng đều giữa các trường đại học trong hệ thống GDĐH Việt Nam. Điều này dẫn đến sự khập khiễng trong tốc độ phát triển, quy mô và chất lượng đào tạo giữa các trường đại học Việt Nam; Chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của các trường đại học Việt Nam chưa cao; Khoảng cách về chất lượng GDĐH của Việt Nam với GDĐH của các quốc gia trong khu vực còn lớn…   

Hai là, rào cản về ngôn ngữ: Đây thực sự là rào cản lớn đối với GDĐH Việt trong quá trình cạnh tranh cung ứng dịch vụ giáo dục chất lượng cao với các hệ thống giáo dục ở các quốc gia trong khu vực và thế giới.

Ba là, những thách thức từ các hiện tượng chảy máu chất xám, sự công nhận văn bằng, đảm bảo chất lượng giáo dục của GDĐH Việt Nam… trong quá trình hội nhập.

Đề xuất, kiến nghị

Trên cơ sở phân tích thực trạng về tự chủ và phát triển GDĐH Việt Nam với những cơ hội và thách thức đặt ra, bài viết đề xuất một số kiến nghị giúp các trường ĐHCL Việt Nam nâng cao tính tự chủ tài chính như sau:

Đối với Chính phủ

Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đã quy định về cơ chế tự chủ đối với các ĐVSNCL theo hướng cải tiến mạnh mẽ, trong đó các đơn vị giáo dục ĐHCL cũng được hưởng những chính sách đổi mới này. Trao quyền tự chủ các cơ sở GDĐH không có nghĩa là Chính phủ hết trách nhiệm mà trong đó vẫn có trách nhiệm đầu tư để giúp các cơ sở giáo dục giảm bớt các khó khăn tài chính, từng bước nâng cao chất lượng GDĐH trong điều kiện hội nhập. 

Hội nhập là cơ hội để giáo dục đại học Việt Nam tranh thủ hợp tác liên doanh với nước ngoài để mở rộng đào tạo trong nước, đào tạo ở nước ngoài; tạo điều kiện để đại học công lập trở thành những trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu tri thức và chuyển giao công nghệ hiện đại; thông qua đào tạo và nghiên cứu để phát hiện và bồi dưỡng nhân tài khoa học.

Để tự chủ tài chính thực sự phát huy được vai trò thì quyền tự chủ của các trường ĐHCL cần được Chính phủ quán triệt triển khai đồng bộ, tránh tình trạng tự chủ nửa vời, bao gồm: (i) Cho phép các cơ sở đào tạo được quyết định giá dịch vụ trên cơ sở tính đúng, tính đủ các chi phí cần thiết theo khung giá do cấp có thẩm quyền ban hành; (ii) Được quyền quyết định việc sử dụng tiền vốn, tài sản gắn với chức năng, nhiệm vụ được giao và được huy động vốn cho đầu tư qua góp vốn liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác để mở rộng và nâng cao chất lượng dịch đào tạo; (iii) Tự quyết định biên chế và trả lương trên cơ sở hiệu quả, chất lượng hoạt động của cơ sở giáo dục; (iv) Chính phủ nên tiếp tục đầu tư cho các chương trình mục tiêu, đầu tư cho các dự án phát triển, nâng cấp cơ sở hạ tầng của cơ sở giáo dục, nhất là các dự án đầu tư lớn, vượt quá khả năng tài chính của cơ sở GDĐH. Có như vậy, tự chủ, tự chịu trách nhiệm mới phát huy được vai trò tích cực về chiến lược.

Đối với các trường đại học công lập

Khi đánh giá, kiểm định chất lượng trường ĐHCL, thì nguồn lực tài chính và công tác quản lý tài chính là 1 trong 10 tiêu chuẩn để xem xét. Theo đó, trường đại học phải có các giải pháp và kế hoạch tự chủ về tài chính, có một hệ thống quản lý chặt chẽ, phù hợp với các quy định của Nhà nước; công tác lập kế hoạch tài chính được chuẩn hóa, công khai hóa, minh bạch và theo đúng quy định; thực hiện phân bổ và sử dụng tài chính hợp lý, công khai, minh bạch và có hiệu quả. Cụ thể:

Một là, chu trình quản lý tài chính bắt đầu từ bước lập dự toán, giao dự toán, chấp hành dự toán, quyết toán ngân sách cho đến các khâu tự kiểm tra tài chính, thẩm định kiểm tra báo cáo tài chính của các cơ quan quản lý và cuối cùng là công khai tài chính. Chu trình này đòi hỏi nhà trường cần có bộ máy kế toán chuyên nghiệp, có trình độ để đảm bảo hiệu quả các chi tiêu trong nhà trường, đảm bảo tính minh bạch, chính xác…

Hai là, việc phân tích hoạt động tài chính chính xác, thực hiện cơ chế tự chủ phù hợp sẽ giúp cho việc định hướng phát triển nhà trường theo đúng mục đích, tôn chỉ hoạt động, nhằm mang lại lợi ích cao nhất cho nhà trường và xã hội. Trong thực tế, dù còn hạn chế nhưng hệ thống các ĐHCL ở Việt Nam đã và đang khẳng định vai trò chủ lực trong hệ thống giáo dục quốc dân, có ảnh hưởng và uy tín nhất định trong đào tạo đại học ở khu vực và trên thế giới.

Nhìn chung, sự phát triển của các trường ĐHCL Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối trực tiếp bởi cơ chế, chính sách và các ưu đãi mà Chính phủ trao cho. Thực hiện tự chủ tài chính ở các trường ĐHCL phải được hiểu và triển khai đầy đủ trong mối quan hệ xác định rõ quyền và nghĩa vụ là giải pháp chiến lược thể hiện quan điểm, tầm nhìn một cách khoa học và thực tế; là thước đo trình độ quản lý, sự đổi mới của chính phủ đối với sự nghiệp phát triển bền vững và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nói chung và GDĐH nói riêng của Việt Nam.       

Tài liệu tham khảo:

Chính phủ (2006),  Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập;

Chính phủ (2015),  Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập;

Mai Ngọc Cường và cộng sự (2007), Điều tra thực trạng và khuyến nghị giải pháp thực hiện tự chủ về tài chính ở các trường đại học Việt Nam, Dự án điều tra cơ bản năm 2006-2007, Đề tài cấp bộ, Đại học Kinh tế quốc dân;

Vũ Duy Hào (2015), “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường Đại học công lập khối kinh tế ở Việt Nam”, Đề tài cấp Bộ, năm 2005.