Tiềm năng carbon xanh khổng lồ của rừng ngập mặn và rong biển tại Việt Nam

Xuân Trường

Trong các nguồn xử lý carbon tự nhiên, ngoài rừng, nguồn xử lý carbon từ hệ sinh thái biển đang dần được chú ý. Đặc biệt, một số nguồn carbon xanh từ biển có khả năng cô lập, chuyển hóa carbon vượt trội so với từ rừng, khiến chúng trở thành nguồn xử lý carbon ưa thích mới trên thị trường tín dụng carbon.

Tảo biển lớn có thể hấp thụ carbon dioxide gấp 20 lần so với rừng.
Tảo biển lớn có thể hấp thụ carbon dioxide gấp 20 lần so với rừng.

Được thiên nhiên ban tặng môi trường địa lý độc đáo với đường bờ biển trải dài hơn 3.000 km, Việt Nam đang tích cực khai thác những cơ hội mới trong lĩnh vực carbon xanh.

Tiềm năng của rong biển trong thị trường tín chỉ carbon của Việt Nam

Rong biển, một loại carbon xanh, có tiềm năng lớn ở Việt Nam. Theo báo cáo của Cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Việt Nam có diện tích nuôi rong biển tiềm năng lên tới 1 triệu ha, với khả năng sản xuất 600.000 đến 700.000 tấn rong biển khô mỗi năm. Tuy nhiên, hiện nay sản lượng chỉ đạt 150.000 tấn, cho thấy còn nhiều dư địa để phát triển.

Về khả năng cô lập carbon, rong biển có thể hấp thụ CO2 với hiệu suất cao hơn rừng từ 2 đến 5 lần, một số loài rong biển lớn có thể hấp thụ tới 20 lần. Do đó, việc mở rộng nuôi rong biển có thể tạo ra khả năng lưu trữ carbon đáng kể, thúc đẩy các đơn vị tìm kiếm quan hệ đối tác với các doanh nghiệp để giúp ngành nuôi trồng thủy sản tăng thu nhập thông qua tín dụng carbon xanh.

Ngành nông nghiệp Việt Nam coi rong biển là nguồn tài nguyên xanh, chi phí đầu tư tương đối thấp, không chỉ hấp thụ khí CO2 trong khí quyển, mà còn mang lại nguồn thu nhập hấp dẫn cho người nông dân.

Khu rừng ngập mặn lớn nhất Việt Nam ở Cà Mau

Rừng ngập mặn cũng là một loại carbon xanh chính. Theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, rừng ngập mặn phân bố ở 28 tỉnh, thành phố ven biển. Khu vực phía Nam, Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng bao phủ 97% diện tích rừng ngập mặn của Việt Nam.

Một khu vực đáng chú ý là tỉnh Cà Mau, nơi có gần 55.000 ha rừng ngập mặn, khiến nơi đây trở thành một trong những khu vực rừng ngập mặn lớn nhất thế giới, với khả năng lưu trữ carbon ước tính là 12,7 triệu tấn. Tại đây, Vườn quốc gia Mũi Cà Mau đã nhận được sự hỗ trợ của doanh nghiệp để khởi xướng một dự án phục hồi rừng ngập mặn.

Vinamilk - công ty sữa đầu tiên của Việt Nam cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 - đã hợp tác với Trung tâm bảo tồn thiên nhiên Gaia để tái trồng rừng tại Vườn quốc gia Mũi Cà Mau kể từ tháng 8 năm ngoái. Dự kiến ​​trong vòng 6 năm, ít nhất 100.000 cây giống ngập mặn sẽ được trồng, có thể cô lập từ 17.000 đến 20.000 tấn CO2 trên 25 ha.

Giá trị kinh tế của rừng ngập mặn ở Việt Nam

Theo ước tính của Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường (ISPONRE), tổng giá trị kinh tế của rừng ngập mặn Việt Nam ước tính đạt trên 7 triệu USD mỗi năm. Con số này bao gồm giá trị gián tiếp của việc cô lập carbon, ước tính khoảng trên 3 triệu USD.

Với việc Việt Nam triển khai Chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES), các đơn vị phát thải carbon lớn được yêu cầu phải trả tiền cho các dịch vụ cô lập carbon, bao gồm cả dịch vụ từ rừng ngập mặn. Chính phủ có kế hoạch phân phối lại nguồn thu này cho giá trị sử dụng trực tiếp của rừng ngập mặn, dự đoán, thu nhập sẽ tăng đáng kể trong tương lai.

Về mặt quản lý, để bảo vệ rừng ngập mặn ven biển, Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 nhằm quản lý, bảo vệ và sử dụng bền vững các khu rừng ven biển hiện có và mới thành lập, với mục tiêu tăng diện tích trồng cây lên 20.000 ha và phục hồi 150.000 ha rừng hiện có vào cuối năm 2030.

Bằng cách mở rộng diện tích trồng rong biển khu vực rừng ngập mặn lên đến khoảng một triệu ha, ngành nuôi trồng thủy sản có thể mở ra nguồn tín chỉ carbon xanh khổng lồ. Khi thị trường carbon đi vào hoạt động, các hồ chứa carbon rong biển sẽ trở thành nguồn tài nguyên mới, giúp ngư dân Việt Nam tăng thu nhập.