Xuất khẩu thủy sản đón cú hích từ các hiệp định thương mại tự do
Mục tiêu của thủy sản Việt Nam không chỉ là đạt mốc xuất khẩu 10 tỷ USD trong năm 2019 mà còn là phát triển bền vững dài hạn.
Nhiều chuyên gia nhận định, 2019 là năm ngành thủy sản Việt Nam có điều kiện thuận lợi để khôi phục sức mua ở các thị trường quan trọng, củng cố đà tăng trưởng do những tác động tích cực từ các hiệp định thương mại tự do (FTA).
Cơ hội từ các FTA
Trao đổi với Báo TG&VN, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, lợi thế cắt giảm thuế quan từ các FTA đang và sắp có hiệu lực như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) cùng với những diễn biến thuận lợi của yếu tố cung - cầu được đánh giá là những động lực quan trọng để xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt mức tăng trưởng mạnh năm 2019 cũng như thời gian tới.
Theo đó, với CPTPP (có hiệu lực từ tháng 1/2019), gần như toàn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, trong đó có thủy sản, vào các nước thành viên CPTPP sẽ được xóa bỏ hoàn toàn thuế nhập khẩu ngay lập tức hoặc theo lộ trình.
Năm 2019 cũng đánh dấu hoàn thành lộ trình cắt giảm thuế trong Hiệp định VJEPA. Đây là thời điểm thích hợp để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản khi thuế nhập khẩu tất cả các mặt hàng thủy sản từ Việt Nam vào Nhật Bản đã được đưa về 0%. Ngoài ra, Hiệp định EVFTA cũng đang được các thành viên tích cực hoàn tất thủ tục để sớm đi vào thực thi.
Theo ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), EVFTA đi vào thực thi sẽ là lực đẩy rất lớn cho xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào thị trường EU, bởi có tới 90% số dòng thuế được cam kết cắt giảm về 0% trong khoảng thời gian ngắn.
Được biết, mức thuế nhập khẩu thủy sản vào EU hiện nay trung bình là 14%, trong đó, nhiều mặt hàng chịu thuế cao tới 26%. Tuy nhiên, ngay khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực, khoảng 840 dòng thuế suất cơ sở, chiếm khoảng 50% số dòng thuế đối với sản phẩm thủy sản sẽ giảm về 0%, số còn lại có lộ trình cắt giảm từ 3 -7 năm.
Ngoài ra, theo các chuyên gia, nhu cầu tiêu dùng thủy sản của thế giới nói chung và nhiều thị trường quan trọng của Việt Nam như Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản… đang có xu hướng gia tăng, cũng sẽ là điều kiện giúp các sản phẩm chủ lực như tôm, cá tra, cá ngừ thiết lập mức tăng trưởng xuất khẩu mới.
Thêm vào đó, kết quả công nhận tương đương theo chương trình thanh tra cá da trơn của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) không chỉ tạo thuận lợi cho xuất khẩu cá tra Việt Nam vào Mỹ, mà còn tác động tích cực lên các thị trường khác. Quan trọng nhất điều này sẽ thúc đẩy quá trình phục hồi thị trường ở khu vực EU sau thời gian gặp khó khăn.
Còn đó những rào cản
Hiện Việt Nam thuộc top 5 nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới nhưng khả năng duy trì sự phát triển còn hạn chế. Theo các chuyên gia, thách thức của ngành thủy sản Việt Nam là quy hoạch và kiểm soát quy hoạch trong cả chuỗi còn thiếu đồng bộ, ảnh hưởng lớn đến chất lượng tăng trưởng cũng như khả năng cạnh tranh.
Chất lượng con giống và nguồn cung con giống không ổn định, chi phí con giống, thức ăn, hóa chất, nhiên liệu đều cao nên giá thành sản phẩm cao. Hầu hết doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa đủ khả năng kiểm soát toàn bộ quá trình sản xuất nguyên liệu từ con giống cho tới quy trình sản xuất, thu hoạch và chế biến.
Về rào cản thị trường, TS. Nguyễn Minh Phong cho rằng, mặc dù mức thuế nhập khẩu thủy sản đã được nhiều thị trường cắt giảm đáng kể, áp lực về thuế chống bán phá giá với tôm, cá tra vào Mỹ cũng được hạ nhưng thủy sản vẫn là một trong những nhóm sản phẩm phải đối mặt với nhiều rào cản nhất hiện nay.
Đặc biệt, chương trình giám sát nhập khẩu thủy sản của Mỹ áp dụng với 13 loài thủy sản tạo nên sức ép lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Theo đó, sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang Mỹ phải tuân thủ theo bộ quy tắc mới về truy xuất nguồn gốc. Dữ liệu về quy trình từ nuôi trồng, đánh bắt đến khi nhập khẩu phải được khai báo và lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển quốc gia Mỹ (NOAA). Yêu cầu này khiến việc thu mua nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu vào Mỹ trở nên khó khăn hơn.
Ngoài ra, Trung Quốc - một trong những thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam - những năm gần đây cũng siết chặt kiểm soát an toàn thực phẩm. Các doanh nghiệp xuất khẩu sang Trung Quốc gặp khó khăn trong đăng ký bổ sung các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào danh sách sản phẩm được chấp thuận nhập khẩu vào quốc gia đông dân nhất thế giới này.
Đặc biệt hơn, việc bị EU cảnh báo thẻ vàng IUU từ tháng 10/2017 đã khiến xuất khẩu nhiều mặt hàng thủy sản sang EU giảm từ 4 - 20% (năm 2018); Tăng trưởng xuất khẩu chung mặt hàng hải sản của Việt Nam bị chững lại.
Mặc dù phía EU ghi nhận những nỗ lực và tiến bộ của Việt Nam trong việc thực hiện các cảnh báo khai thác IUU, nhưng việc khắc phục các tồn tại vẫn chưa đạt yêu cầu. Cụ thể, quy trình thực hiện xác nhận, chứng nhận thủy sản khai thác theo quy định IUU vẫn bị vướng vì những bất cập cũng như sự thiếu đồng bộ giữa quy định, cơ hạ tầng, kỹ thuật tại các đơn vị thực hiện, đặc biệt là cảng cá. Do đó, cảnh báo thẻ vàng IUU với thủy sản Việt Nam đang được tiếp tục gia hạn chứ chưa được gỡ bỏ.
Theo các chuyên gia, đứng trước những thách thức không nhỏ đó, đòi hỏi ngành thủy sản phải sớm xây dựng quy hoạch nuôi hợp lý, nâng cao công nghệ chế biến và thúc đẩy xuất khẩu. Cần có biện pháp vận động ngư dân tuân thủ hoạt động đánh bắt theo quy định, không vi phạm IUU.
Việc củng cố lòng tin của người tiêu dùng đối với sản phẩm Việt Nam và tăng cường xuất khẩu vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, Australia… cũng là một trong những biện pháp cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu năm 2019 và phát triển bền vững.