10 năm thực hiện chiến lược tài chính 2001-2010

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

Sau 10 năm thực hiện Chiến lược tài chính 2001-2010, nền tài chính quốc gia đã có những chuyển biến rõ nét, hệ thống các cơ chế, chính sách tài chính tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn và từng bước tiệm cận với thông lệ quốc tế; tổ chức bộ máy và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính đã được đổi mới một bước theo hướng chuyên nghiệp, gọn nhẹ hơn; tiềm lực tài chính quốc gia được củng cố; các quan hệ kinh tế - tài chính vĩ mô được duy trì ổn định; mức động viên, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính tiếp tục có những chuyển biến tích cực.

Những kết quả đạt được

Việc xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược tài chính 2001-2010 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế trong nước có những thay đổi sâu, rộng trên nhiều mặt, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng được phát triển và hoàn thiện. Giai đoạn 2001-2010 đánh dấu những chuyển biến sâu sắc trong quá trình mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới của nước ta, trong đó nổi bật là việc chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ năm 2007. Đây cũng là giai đoạn mà nền tài chính quốc gia phải đã phải đối mặt và giải quyết không ít khó khăn do các biến động bất lợi của tình hình kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế. Những năm đầu thực hiện Chiến lược tài chính 2001-2010, kinh tế trong nước nói chung và ngành tài chính nói riêng tiếp tục chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997-1998. Trong những năm cuối thực hiện Chiến lược, nước ta lại chịu các ảnh hưởng tiêu cực có quy mô và mức độ lớn hơn từ sự biến động bất lợi của giá cả hàng hoá trên thị trường thế giới, sự xuất hiện và lan rộng của khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới 2008, trong đó đáng kể là sự sụt giảm về xuất khẩu và các nguồn vốn từ bên ngoài. 

Căn cứ vào các mục tiêu được đặt ra tại Quyết định số 214/2004/QĐ-TTg ngày 14/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt định hướng phát triển tài chính Việt Nam đến năm 2010, có thể thấy ngành Tài chính đã đạt được một số kết quả cụ thể như sau:

Củng cố và tăng cường tiềm lực tài chính quốc gia

Tiềm lực tài chính Nhà nước tiếp tục được tăng cường, quy mô ngân sách nhà nước đã được mở rộng. Tổng thu NSNN giai đoạn 2001–2010 đạt mức động viên bình quân 26%. Cơ cấu thu ngân sách cũng đã được cải thiện với tỷ trọng các khoản thu từ những sắc thuế mang tính ổn định như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng trong tổng thu ngân sách ngày càng tăng. Quy mô chi NSNN tăng khá, nếu như tổng chi NSNN so với GDP của giai đoạn 1991-2000 bình quân khoảng 25% thì sang giai đoạn 2001-2010 đạt trên 30%. Tổng mức dự trữ đến hết năm 2010 có thể đạt gấp trên 3 lần năm 2005, đảm bảo đáp ứng được yêu cầu của Nhà nước trong các yêu cầu cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh, bảo đảm anh sinh xã hội, an ninh quốc phòng, tham gia bình ổn thị trường. Các quỹ tài chính Nhà nước như quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế được cải thiện cả về tổng số dư và số người tham gia.

Đối với tiềm lực tài chính doanh nghiệp, tổng số doanh nghiệp thành lập đến năm 2010 dự kiến đạt 540 nghìn, gấp 13 lần số doanh nghiệp có đến cuối năm 2000, gấp 5 lần số doanh nghiệp có đến cuối năm 2005. Quá trình tích tụ và tập trung vốn của các doanh nghiệp cũng diễn ra nhanh. Quy mô vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước không ngừng được mở rộng. Đồng thời, kinh tế tăng trưởng nhanh với tốc độ bình quân 7,2% mỗi năm đã góp phần cải thiện đáng kể mức sống của người dân và tiềm lực tài chính của khu vực dân cư. GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt khoảng 1.200 USD, tăng khoảng 3,5 lần so với năm 2000, tạo điều kiện cho việc gia tăng tích luỹ đầu tư của khu vực này, bao gồm cả đầu tư qua kênh gián tiếp và trực tiếp. Ngoài ra, nhờ chính sách cởi mở trong việc thu hút kiều hối như không bị hạn chế số lượng, thủ tục thông thoáng, chính sách thuế và phí ưu đãi nên nguồn kiều hối đã tăng khá và trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của đất nước.

Khơi thông nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội

Có thể nói, một trong những thành tựu quan trọng đạt được trong giai đoạn 2001-2010 là đã khơi thông được các nguồn lực tài chính đảm bảo thực hiện các mục tiêu đã đặt ra. Tổng mức đầu tư toàn xã hội trong 10 năm qua liên tục tăng và duy trì ở mức cao, tạo điều kiện để duy trì mức tăng trưởng ổn định trong giai đoạn 2001-2010. Tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 35,4% năm 2001 lên dự kiến khoảng 41,5% năm 2010 (bình quân giai đoạn 2001-2005 là 39%, giai đoạn 2006-2010 là 42,7%). Cả giai đoạn 2001-2010, tổng đầu tư xã hội đạt khoảng 41% GDP (cao hơn so với mục tiêu đề ra là 36-40% GDP). Nước ta đã khơi thông được nguồn lực để phát triển kinh tế-xã hội như vốn từ NSNN, vốn từ trái phiếu chính phủ, quỹ đất, sổ xố, vốn của dân cư và tư nhân, vốn ODA, vốn FDI.

Bên cạnh sự mở rộng về quy mô, hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực được cải thiện. Các nguồn tài chính đã được phân bổ, sử dụng hiệu quả hơn, đã ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho các lĩnh vực, các vùng kinh tế có khả năng tạo ra động lực chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Vốn ngân sách nhà nước, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước đã được tập trung ưu tiên cho các dự án kết cấu hạ tầng, giao thông, thủy lợi, giáo dục, y tế, các chương trình mục tiêu quan trọng và thúc đẩy phát triển các vùng trọng điểm. Đầu tư của các DNNN đã được cơ cấu lại theo hướng tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực then chốt, các ngành kinh tế mũi nhọn (khí, điện, đạm, xi măng, sắt thép...),  góp phần quan trong trong việc nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nguồn vốn của khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài đã từng bước hướng vào các ngành, các vùng kinh tế được khuyến khích phát triển theo định hướng của Nhà nước.

Với sự tăng trưởng nhanh về quy mô, NSNN cũng đã có điều kiện tập trung nhiều hơn cho việc phát triển nguồn lực con người, đảm bảo chi cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế và chi cho khoa học công nghệ theo đúng mục tiêu đã đặt ra.

Đổi mới hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tài chính; nâng cao hiệu quả điều hành chính sách

Hệ thống luật pháp về tài chính tiếp tục được hoàn thiện trên tất các các mặt, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn 2001-2010, đã xây dựng khoảng 20 luật, pháp lệnh trong lĩnh vực tài chính. Đã thực hiện tập trung tháo gỡ các rào cản về cơ chế, chính sách tài chính để huy động có hiệu quả các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế - xã hội, hình thành một môi trường đầu tư thống nhất, công bằng, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế, khuyến khích quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là đối với khu vực kinh tế tư nhân.

Chính sách động viên NSNN đã từng bước tiếp cận với các chuẩn mực chung của thông lệ quốc tế, đảm bảo cho Việt Nam tham gia hội nhập và thực hiện thành công các cam kết quốc tế. Đã cơ bản hoàn thành việc sửa đổi, bổ sung và ban hành các luật, pháp lệnh về thuế, phí theo lộ trình đề ra, phù hợp với quá trình chuyển đổi chung của nền kinh tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích luỹ, mở rộng sản xuất, gia tăng xuất khẩu. Chính sách thu đối với đất đai và tài nguyên thiên nhiên cũng liên tục được sửa đổi hoàn thiện, góp phần khuyến khích sử dụng đất và tài nguyên tiết kiệm, hiệu quả. 

Hệ thống pháp luật về quản lý ngân sách nhà nước cũng không ngừng được hoàn thiện. Việc thực hiện phân cấp nguồn thu và trao quyền chủ động cho địa phương đã khuyến khích các địa phương tăng cường quản lý ngân sách, phấn đấu tăng thu. Đồng thời, những cải cách về cơ chế, chính sách quản lý NSNN cũng đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN, củng cố kỷ cương, kỷ luật tài chính, nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng NSNN.

Cơ chế chính sách quản lý tài chính đối với doanh nghiệp cũng được đổi mới căn bản, nhất là cơ chế quản lý tài chính DNNN và phương thức quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đã hoàn thiện các chính sách tài chính doanh nghiệp phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và đặc thù của nền kinh tế, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc về nguồn vốn, đất đai, giảm gánh nặng thuế đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.  Hành lang pháp lý cho việc sắp xếp, cơ cấu lại các DNNN cũng được hình thành khá động bộ.

Đã hình thành được khung pháp lý quan trọng để thúc đẩy cải cách khu vực sự nghiệp công lập, thực hiện trao quyền chủ động cho các đơn vị, thúc đẩy cạnh tranh để nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ công, tăng thu nhập, giảm bớt gánh nặng cho NSNN.  Cùng với việc đổi mới cơ chế đối với khu vực sự nghiệp công lập, các chính sách ưu đãi về tài chính cũng được ban hành để khuyến khích phát triển hệ thống các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập, thực hiện chính sách xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường. Theo đó, đã thu hút được nguồn lực đáng kể ngoài NSNN để đa dạng hoá loại hình, phương thức hoạt động và sản phẩm dịch vụ.

Bên cạnh việc không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, phương thức điều hành chính sách đã có những thay đổi căn bản. Cơ chế, chính sách tài chính đã được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý và kịp thời với diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn. Đã từng bước đưa chính sách tài chính trở thành một công cụ vĩ mô quan trọng trong điều hành và quản lý nền kinh tế.

Hình thành đồng bộ các loại hình thị trường tài chính và dịch vụ tài chính

Cấu trúc của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính đã từng bước được hoàn chỉnh phù hợp với khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước. Thị trường chứng khoán và các trung gian tài chính khác đã có sự phát triển nhanh cả về quy mô và chất lượng hoạt động và đã trở thành một kênh huy động và đầu tư vốn cho nền kinh tế. Quy mô vốn hoá của thị trường chứng khoán đạt 38% GDP vào năm 2009 và phấn đấu đạt khoảng 50% GDP vào năm 2010. Thị trường trái phiếu cũng đã có sự phát triển mạnh, trái phiếu Chính phủ đã bước đầu thu hút được sự quan tâm, tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các kênh phát hành trái phiếu cũng được mở rộng.

Thị trường bảo hiểm tiếp tục phát triển cả về quy mô và chất lượng sản phẩm. Đến hết năm 2009 đã có 50 doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm với quy mô thị trường đạt 2,3% GDP. Thị trường dịch vụ kế toán, kiểm toán, tư vấn thẩm định giá, tư vấn thuế, đại lý hải quan... đã hình thành và từng bước phát triển; các chủ thể tham gia trên thị trường phát triển đa dạng hơn, cạnh tranh bình đẳng hơn, với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp cung ứng dịch vụ thuộc nhiều thành phần sở hữu khác nhau. Phạm vi cung ứng dịch vụ được mở rộng, chất lượng sản phẩm dịch vụ, được nâng cao, giá cả phù hợp với tiềm lực của khách hành, đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường. Số lượng các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán đã tăng từ 7 công ty năm 2000 lên 148 công ty kiểm toán đủ điều kiện hành nghề, 32 công ty dịch vụ kế toán đăng ký hành nghề vào giữa năm 2010.

Chủ động hội nhập và hợp tác quốc tế về tài chính

Hội nhập tài chính đã thể hiện được vai trò tiên phong trong thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Hoàn thành về cơ bản việc đàm phán thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính trong các khuôn khổ hợp tác đa phương và song phương. Chủ động xây dựng kế hoạch hành động sau khi Việt Nam gia nhập WTO; tiến hành sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về biểu và khung thuế suất thuế nhập khẩu, chính sách hải quan, chính sách quản lý và phát triển dịch vụ tài chính; mở cửa thị trường bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn thuế... để thực hiện cam kết WTO.

Đã tham gia tích cực vào các hoạt động hợp tác tài chính trong khuôn khổ các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế (ASEAN, ASEAN+3, APEC, ASEM...), qua đó góp phần nâng cao uy tín và vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Hợp tác quốc tế trong từng lĩnh vực như thuế, hải quan, chứng khoán, bảo hiểm cũng không ngừng được đẩy mạnh.

Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia

Công tác quản lý nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia tiếp tục được đổi mới. Đã xây dựng, ban hành, sửa đổi và tổ chức thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nợ, đã xây dựng và thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ và các chỉ tiêu giám sát nợ, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay trả nợ hàng năm. Công tác hạch toán, kế toán, thống kê, báo cáo về nợ đã được cải tiến theo thông lệ quốc tế. Nợ nước ngoài của quốc gia, nợ Chính phủ được duy trì dưới 50% GDP, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Tính đến hết năm 2009, nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm 38,9% GDP; nợ Chính phủ chiếm 41,9% GDP. Cơ cấu nợ đảm bảo được sự bền vững trên cả phương diện khả năng thanh toán và tính thanh khoản.

Cân đối ngân sách nhà nước được duy trì ổn định và theo hướng tích cực, đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định, hỗ trợ nền kinh tế đối phó thành công với những tác động bất lợi từ bên ngoài. Hầu hết các năm trong giai đoạn 2001-2010, tỷ lệ bội chi NSNN đều dưới mức giới hạn 5% GDP, ngoài trừ năm 2009 và 2010 có cao hơn do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính

Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính được cải thiện cả về nội dung và quy trình phương pháp thực hiện, qua đó đã từng bước phát huy tác dụng tích cực trong việc bảo vệ pháp luật tài chính, ngăn chặn tình trạng tham ô, thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước; đồng thời đã góp phần phát hiện những bất hợp lý trong chính sách để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện.

Đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính

Công tác cải cách hành chính trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh; bộ máy tổ chức quản lý tài chính được kiện toàn trên nhiều phương diện, cơ bản đáp ứng được yêu cầu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia. Đã tiến hành rà soát, loại bỏ các văn bản pháp quy có liên quan đến lĩnh vực tài chính không còn phù hợp, đồng thời sửa đổi, ban hành kịp thời các văn pháp quy mới; qua đó góp phần nâng cao kỷ cương, kỷ luật tài chính, tính công khai, minh bạch của hệ thống thể chế tài chính kết hợp với quá trình hiện đại hoá ngành tài chính. Các quy định về thủ tục hành chính và quy trình nghiệp vụ trong từng lĩnh vực tài chính đã được chuẩn hóa theo hướng đồng bộ, xóa bỏ các thủ tục rườm ra, gây tốn kém về thời gian và tiền bạc của người dân và doanh nghiệp; đồng thời nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp, người nộp thuế, cơ quan sử dụng ngân sách.

Tổ chức, bộ máy điều hành, quản lý nền tài chính quốc gia tiếp tục được đổi mới, đã thực hiện rà soát, sắp xếp lại chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị đảm bảo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn; kết hợp phân định chức năng nhiệm vụ gắn với chủ trương cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; năng lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tài chính bước đầu được nâng cao, đạo đức nghề nghiệp đã được chú trọng.

Một số vấn đề đặt ra

Tuy đạt được các kết quả nói trên, quá trình thực hiện Chiến lược tài chính 2001-2010 cũng cho thấy một số tồn tại, đó là:

- Tính ổn định, bền vững trong huy động nguồn lực chưa cao. Việc huy động nguồn lực cho NSNN tăng cao nhưng vẫn còn dựa vào các khoản thu không không tái tạo như các khoản thu từ dầu thô và các khoản thu từ đất đai, tài nguyên. Huy động các nguồn tài chính ngoài nhà nước thông qua thị trường tài chính còn chưa ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro. Quy mô thị trường tài chính và dịch vụ tài chính còn nhỏ, việc huy động và phân bổ nguồn lực tài chính trong xã hội chủ yếu vẫn dựa vào khu vực ngân hàng. Huy động FDI còn mang tính dàn trải, chưa chú trọng thu hút vốn theo chiều sâu.

- Hiệu quả phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia còn hạn chế, tình trạng lãng phí, kém hiệu quả chậm được khắc phục. Cơ cấu đầu từ theo vùng còn có bất hợp lý, chưa hướng mạnh vào đầu tư chiều sâu, đầu tư theo vùng, miền; tình trạng đầu tư dàn trải ở một số ngành, một số địa phương chậm được khắc phục, chưa thực sự quan tâm tới hiệu quả, hiệu lực đầu tư trong dài hạn. Đầu tư cho một số lĩnh vực như y tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và văn hoá xã hội tuy đã được quan tâm hơn so với trước song chưa tạo được sự chuyển biến tương xứng về chất lượng cung cấp dịch vụ, như chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, chậm được cải thiện; đầu tư cho nghiên cứu khoa học còn dàn trải, hiệu quả ứng dụng chưa cao.

- Hệ thống thanh tra, giám sát tài chính vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; sự phối kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong giám sát tài chính trong một số khâu còn yếu và chậm có giải pháp khắc phục. Công tác cải cách hành chính, bộ máy trong lĩnh vực quản lý tài chính ở một số khâu còn thiếu tính đột phá và chưa theo kịp với thực tiễn phát sinh trong điều hành kinh tế- xã hội.

Tóm lại, sau 10 năm thực hiện Chiến lược tài chính 2001-2010, nền tài chính quốc gia đã có những chuyển biến rõ nét, hệ thống các cơ chế, chính sách tài chính tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các điều kiện cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn và từng bước tiệm cận với thông lệ quốc tế; tổ chức bộ máy và các thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính đã được đổi mới một bước theo hướng chuyên nghiệp, gọn nhẹ hơn; tiềm lực tài chính quốc gia được củng cố; các quan hệ kinh tế - tài chính vĩ mô được duy trì ổn định; mức động viên, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính tiếp tục có những chuyển biến tích cực./.